Chương
1: SỰ KÊU GỌI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Vào
tối ngày 26 tháng 5 năm 1984 năm nhà biên tập của tờ nhật báo El Guardian đã
tham dự chiến dịch truyền giảng của chúng tôi tại Ensenada bằng cách ẩn mình
cách thận trọng giữa đám đông. Họ đã nghe những câu chuyện đáng kinh ngạc xảy
ra tại các buổi truyền giảng của chúng tôi. Và họ có mặt ở đó để tìm kiếm những
chứng cớ lừa bịp mà họ hi vọng phát hiện được trong các phép lạ siêu nhiên mà
Đức Chúa Trời thực hiện qua các buổi nhóm. Bài tường trình từ một bài báo được
trích dẫn cho thấy không những họ đã không tìm thấy sự dối trá nào, mà còn
tường thuật cách chính xác những trường hợp được chữa lành bằng phép lạ mà
chính họ đã chứng kiến khi Đức Chúa Trời hành động trong quyền năng và vinh
hiển.
Chữa Lành Bởi Phép Lạ Và Các Sự Kiện Không Thể Giải Thích Được
Tại Ensenada
Vào
tối ngày 26 tháng 5 năm 1984, năm nhà biên tập của tờ El Guardián (The Guadian)
là những người đã chứng kiến một số sự kiện mà tính ngoạn mục phi thường và
tính chân thật của chúng không chấp nhận bất cứ lý do phản đối nào cả. Giữa
vòng bốn ngàn người đang nhóm họp quanh bục giảng tại Hội Thánh Tin Lành... các
nhà báo nhìn thấy hơn ba trăm người ngã xuống như thể bị sét đánh, chỉ vì một
cái chạm nhẹ của nhà truyền giáo Cơ Đốc tên là Carlos Annacondia, và họ cũng đã
xác minh những sự chữa lành xảy ra vào thời điểm đó...
Trong
số năm nhà biên tập chuyên nghiệp có mặt thì ba người là Thiên Chúa Giáo, một
người chỉ mang danh nghĩa Cơ Đốc và một người là vô thần...ngay trước mắt nhóm
người vẫn thường phân tích các sự kiện hoàn toàn vô tư, không thành kiến trong
phán đoán và lạnh lùng trong suy luận nầy là những quý bà sủi bọt mồm, những
đứa trẻ ngã dài trên lớp cỏ ẩm, các phụ nữ ngã quỵ trong lớp đất bùn. Ba trong
số những phụ nữ mặc những chiếc áo khoác bằng lông thú đắt tiền và hàng trăm
thanh niên cả nam lẫn nữ, những người lớn tuổi, những người thuộc giới bình dân
đang loạng choạng cố giữ mình cho khỏi ngã. Không một điều nào chúng tôi đang
nói đây vượt quá sự thật cả...
Tất
cả những gương mặt của những người được nhà truyền giáo Annacondia “đụng đến”
đều có những biểu hiện rõ ràng của nỗi đau đớn hoặc niềm vui sướng, không một
biểu lộ nào có thể bảo rằng họ đang đóng kịch hoặc giả bộ. Đây là những con
người bình dân không thể dựng lên những cảnh như thế qua thần giao cách cảm với
sự trung thực. Điều này gợi đến những ngày được ghi trong Kinh Thánh; những giờ
khắc mà Hội Thánh đầu tiên đã sống, không phải là một hoạt động được dàn dựng
hay trình diễn để lừa dối những người nhẹ dạ...
Annacondia
không phải là nhà thôi miên. Ông ta dùng Thánh Kinh như một phương tiện trực
tiếp và không hề tách khỏi Lời ấy. Không một nhóm từ nào của ông tách rời khỏi
các sách Phúc âm...ông không hề tuyên bố chữa lành cho bất cứ ai bởi vì ông nói
“Đức Chúa Trời chính là Đấng Chữa Lành”. Và có rất nhiều người được chữa lành.
Một phóng viên của tờ El Guardia bị thương ở phần sụn của đầu gối trái do bị
ngã nặng (tai nạn xảy ra ba tháng trước đó), giờ đây anh không còn thấy đau đớn
gì nữa và có thể di chuyển được bình thường.
Gần
ba mươi ngàn người tham dự các buổi tối của chiến dịch truyền giảng khác nhau,
ngoài các nhà thanh tra và quan điểm của các phóng viên, tất cả đều đồng ý như
một lời chứng vững chắc không thể giải thích được, rằng đó là những sự việc
thật sự đã xảy ra mỗi buổi tối cầu nguyện; những đêm mà trong đó họ luôn nói về
Chúa Cứu Thế và Đức Chúa Trời, chỉ các Đấng ấy mà thôi.
Như
báo chí đã ghi nhận, mỗi đêm truyền giảng đều phi thường. Âm thanh của những
bài hát thờ phượng Chúa tràn ngập phòng nhóm. Những cánh tay giơ cao bày tỏ
lòng khao khát Chúa. Người ta vui mừng thuật lại những phép lạ siêu nhiên xảy
đến cho đời sống họ.
Một
phụ nữ khiến tôi chú ý đặc biệt và làm tôi cảm động sâu xa. Bà đã kinh nghiệm
một phép lạ và thuật lại câu chuyện kỳ diệu đó như sau:
Tôi
sống trọn thời thơ ấu với bố mẹ và ba anh chị em ở thành phố Río Dulce, là nơi
giao tiếp của các nhánh sông. Chỗ ấy nằm ngay biên giới giữa tỉnh Cordoba và
Santiago del Estero.
Một
buổi chiều nọ khi mẹ tôi mở chiếc rương lớn, một con rắn đã cắn nhiều chỗ trên
người bà. Kinh hoàng và quá đau đớn, bà thét lên và ngã quỵ trước mặt chúng
tôi. Cha tôi không làm một điều gì cả, mặc dầu người anh cả của chúng tôi gào
lên đòi ông phải ra tay, ông vẫn không phản ứng gì. Ngay sau đó, cha tôi chuẩn
bị xe ngựa kéo và đi mất, bỏ mặc mẹ tôi nằm hấp hối dưới đất và chúng tôi cô
quạnh bên cạnh bà. Tất cả chúng tôi phải vất vả lắm mới đưa được mẹ lên giường,
nhưng bà đã quá yếu. Trời sụp tối, vì vậy chúng tôi quyết định mang mẹ lên một
chiếc xuồng để đưa đến nơi nào có thể tìm được sự trợ giúp. Song vô ích. Mẹ tôi
đã chết.
Bốn
đứa chúng tôi, cùng đứng đó trước thi hài của mẹ, thật cô độc. Em trai nhỏ nhất
của chúng tôi là Juan chỉ mới mười một tháng. Kế đến là tôi, bốn tuổi. Chị tôi
Juana năm tuổi và cuối cùng là Pedro, anh lớn nhất của tôi, tám tuổi.
Chúng
tôi tự tay làm một cái quan tài, và nhờ sự giúp đỡ của một người hàng xóm,
chúng tôi đưa mẹ ra nghĩa trang. Người gần nhất sống cách chúng tôi một ngày
rưỡi đường đi bằng ngựa. Chúng tôi suy đoán rằng ông hàng xóm đến là vì cha
tôi, khi ra đi đã ghé qua và cho ông ta biết tình cảnh của chúng tôi. Sau khi
giúp chôn cất mẹ tôi, ông ta ra về. Ông hứa sẽ trở lại, nhưng không bao giờ trở
lại nữa.
Chỉ
còn có một mình, chúng tôi quay về căn nhà bằng đất sét của mình, nơi chúng tôi
đã sống, bị bỏ mặc cho số phận tại đó. Mỗi buổi chiều chúng tôi ra thăm mộ mẹ
vì cảm thấy được che chở bởi thân xác mẹ tôi nằm ở đó. Chúng tôi cứ làm thế
suốt trong ba năm, chẳng hề sợ hãi; nơi đó là nhà của chúng tôi. Thật thế,
chúng tôi cảm thấy hết sức vui thích đến nỗi thường chơi đùa và ngủ lại ở giữa
các ngôi mộ.
Ngày
nay, tôi nhận biết rằng Đức Chúa Trời đã bảo vệ chúng tôi suốt thời gian đó,
khi mà chúng tôi chỉ có một mình. Chúng tôi ăn cá và săn bắt bằng những chiếc
bẫy tự lắp đặt. Lúc ấy vịt, cừu, trứng rất nhiều và một số khác cũng có sẵn.
Chúng tôi cho đứa em nhỏ Juan uống sữa từ một con dê đang cho con bú; con dê
nằm xuống, Juan thường chui vào bú trực tiếp. Anh cả là người lo thức ăn cho cả
nhà, mặc dầu tất cả chúng tôi đều phụ giúp.
Một
ngày nọ, anh cả bắt chúng tôi thề rằng người nào trong chúng tôi có cơ hội đầu
tiên gặp lại cha mình thì phải giết chết ông ấy. Thực ra lúc ấy chúng tôi chỉ
là những đứa trẻ hoang dã, hung dữ. Chúng tôi trần truồng, bẩn thỉu và lôi thôi
lếch thếch. Điều duy nhất giữ cho chúng tôi còn sống là mong muốn giết được cha
mình. Điều đó cho chúng tôi sức mạnh cần thiết để sống còn.
Ba
năm sau đó, cha tôi trở về, ông trói chúng tôi lại, cho vào bao và đem chúng
tôi đến thị trấn gần nhất. Sau đó ông giao chúng tôi cho các chủ đất khác nhau,
phân ly chúng tôi bất chấp tình thương gắn bó chúng tôi dành cho nhau.
Những
người chủ trại đã nhận tôi, dạy tôi cách làm việc ngoài đồng, làm bánh mì và
các công việc khác. Mặc dầu chỉ mới bảy tuổi, tôi đã làm việc rất vất vả. Thực
ra họ đã phải thuần dưỡng tôi. Thậm chí lúc ấy, lời thề với các anh em tôi rằng
sẽ giết cha tôi vẫn là động lực tiếp sức cho tôi để sống. Tôi phải lớn lên để
thực hiện sự báo thù thay cho mẹ tôi . Tôi không bao giờ còn gặp lại các anh
chị em tôi nữa, nhưng hy vọng tìm gặp họ cũng đã giúp tôi sống còn.
Khi
tôi mười bốn tuổi, đứa con trai trong gia đình nuôi dưỡng hãm hiếp và đánh dập
tôi dã man. Một ngày nọ, mệt mỏi vì phải chịu đựng tất cả những gì hắn đã làm
cho tôi, tôi kể hết mọi chuyện cho cha mẹ hắn. Họ bảo tôi nói dối và còn đánh
đập tôi tàn tệ đến nỗi cuối cùng tôi phải nằm nhà thương trong ba tháng. Các
bác sĩ bảo rằng tôi không khá lên được vì tôi không muốn sống.
Cơn
sốt tiếp tục làm cạn kiệt sức lực tôi, nhưng khi nhớ lại lời thề của chúng tôi,
tôi bắt đầu bình phục dần dần cho đến khi có thể trở lại làm việc tại trại chăn
nuôi. Một đêm nọ trước khi được mười bảy tuổi, tôi bỏ trốn, ẩn trong các cánh
đồng lúa miến, đi bộ đến thị trấn gần nhất và đến nơi trước bình minh. Tôi chạy
đến đồn cảnh sát và kể cho họ điều đã xảy đến cho tôi. Tưởng sẽ được bảo vệ
nhưng họ bỏ tôi vào một phòng giam, tại đó hai cảnh sát đã đánh đập và cưỡng
hiếp tôi.
Tôi
thật sự muốn chết. Thậm chí tay cảnh sát trưởng thị trấn đêm đó cũng muốn cưỡng
hiếp tôi, khi tôi phủ phục dưới chân và van nài ông đừng làm điều đó, tôi rên
rỉ “Lạy ông, xin đừng làm khổ tôi”, ông ta cảm thấy tội nghiệp nên để tôi lại
một mình. Ông cho tôi biết gia đình nuôi tôi là một gia đình rất có thế lực
trong vùng và tôi phải quay về với họ. Tôi cho ông biết cha ruột tôi cũng là
một người nổi tiếng và bảo ông tìm ông ấy; chắc chắn ông ta sẽ cho viên cảnh
sát trưởng ấy một số tiền vì đã giải thoát tôi. Cuối cùng, viên cảnh sát trưởng
đồng ý, ông khai báo cho gia đình chủ trại, đồng thời cho cha tôi chỗ ở của
tôi.
Cùng
ngày đó, tôi trở về với cha tôi. Ông không hề gặp các anh chị em tôi từ khi ông
bỏ họ cách đây nhiều năm. Tôi thật vui mừng gặp được ông. Tôi tự nhủ, cuối cùng
tôi cũng sẽ giết được ông. Tôi là một cô gái trẻ sử dụng dao rất thành thạo và
tôi thấy đã đến lúc để thực hiện điều chúng tôi thề hứa với nhau nhiều năm
trước.
Lúc
nầy bố tôi đang khá giả. Ông tìm cách trò chuyện với tôi, muốn làm cho tôi cảm
thấy dễ chịu, nhưng tôi không đáp ứng. Tôi thường cho ông xem con dao và nói:
“Đừng đi ngủ vì một đêm nào đó tôi sẽ giết ông”.
Từ
ngày nầy sang ngày khác, tôi không ngồi cùng bàn với cha tôi trong bữa trưa
cũng như bữa tối. Tôi mang đĩa cơm của mình ra ngoài nhà và ngồi ăn dưới đất,
bốc bằng tay, để chứng tỏ cho ông thấy điều ông đã làm cho tôi. Nhìn thấy điều
đó, ông thường khóc và xin tôi tha thứ, nhưng tôi đầy lòng căm ghét đối với
ông.
Ngày
nọ tôi lấy một con dao và quyết định giết ông. Tôi muốn mặt đối mặt để chứng
kiến nỗi đau đớn của ông. Tôi đã lao tới và đâm ông. Tôi nghĩ mình đã giết được
ông ta, nhưng khi nhìn con dao tôi chẳng thấy chút máu gì cả. Vì thế tôi nói
với ông: “Bố nầy, giờ bố chưa đến, nhưng không lâu đâu, tôi sẽ giết bố”.
Một
buổi chiều nọ tôi đang ăn cơm ngoài hàng hiên, thì nghe một tiếng động lớn, như
có cái gì đổ. Âm thanh ấy khiến tôi khiếp sợ, và tôi cảm nhận được mùi của sự
chết. Cha tôi đã ngã chết. Tôi vui mừng phần nào, mặc dầu tôi đã ước ao giết
ông bằng chính tay mình.
Cái
chết của cha tôi dẫn đến những đau khổ mới, bởi vì giờ đây tôi không biết phải
làm gì với cuộc đời của một đứa trẻ mồ côi như tôi. Một thanh niên quen biết
cha tôi đến gặp tôi và cầu hôn tôi. Tôi nhận lời vì muốn có ai đó chăm sóc tôi.
Nhưng những bất hạnh lại tiếp diễn. Chồng tôi đã lợi dụng tôi. Anh ta không
muốn làm việc, anh ta đối xử với tôi như một đầy tớ.
Khi
tôi mang thai, anh ta đem tôi đến Buenos Aires và bỏ tôi ở đó với một gia đình.
Họ đối xử với tôi thật tồi tệ. Tôi cơ cực đến nỗi một buổi chiều nọ tôi quyết
định lao mình vào gầm một chiếc xe lửa đang chạy, nhưng lạ lùng thay, chiếc xe
lửa dừng ngay trước mặt tôi.
Trước
khi con trai tôi ra đời, chồng tôi trở lại với tôi, nhưng sự đau khổ vẫn tiếp
tuc. Một lần nữa, tôi bỏ trốn đến sống ở thành phố Rosario với hai con của tôi,
một bé trai hai tuổi và một bé gái một tháng. Thật khó khăn khi phải sống và
làm việc ở đó. Cuối cùng chồng tôi tìm được tôi và đến sống với chúng tôi.
Năm
1985 một người hàng xóm thuật cho tôi nghe về buổi truyền giảng của Annacondia.
Tôi đã dâng đời mình cho Chúa Cứu Thế tại đó, nhưng cuộc đời tôi chẳng được
thay đổi.
Vài
năm sau đó tôi ngã bệnh, tôi bị xuất huyết nặng và không đỡ hơn chút nào. Năm
1991 tôi quyết định tìm đến một nhà thờ Tin Lành. Hạt giống được gieo trồng bởi
Mục sư Annacondia cuối cùng đang nảy mầm.
Tôi
đi nhà thờ với cả gia đình. Tôi bắt đầu nhóm lại đều đặn, nhưng vẫn không có sự
tha thứ trong lòng, tôi chẳng nói gì về đời sống riêng của mình cả. Quá khứ của
tôi được giấu kín trong đáy lòng. Mặc dầu tôi hầu việc Chúa ở Hội Thánh mình và
cũng là một nhân sự có kỷ luật, song tôi chưa bao giờ tha thứ cho người nào xúc
phạm tôi nặng nề.
Năm
1996 khi họ thông báo rằng Carlos Annacondia sắp tổ chức một chiến dịch truyền
giảng tại thành phố của tôi, tôi chuẩn bị với tư cách một nhân viên trong ban
tiếp tân. Vài đêm trước khi chiến dịch bắt đầu, tôi thưa với Chúa rằng tôi muốn
làm một nhân sự tốt, tôi cầu nguyện: “Nếu có bất cứ điều gì trong con cần được
Ngài thanh tẩy, xin hãy chỉ cho con thấy”. Tôi cũng xin Ngài cho tôi cơ hội tìm
lại được các anh chị em mình. Tôi biết chị tôi đang ở Santa Fe, nhưng chưa bao
giờ tìm được chị. Tôi luôn cầu nguyện cho chị.
Một
buổi sáng nọ vào lúc mười giờ, trước khi chiến dịch bắt đầu, tôi nhận được thư
của Juan, em út của tôi. Lập tức tôi liên lạc được với em qua điện thoại và chỉ
ít ngày sau đó tôi lên thành phố để gặp em.
Tôi
cảm tạ Chúa vô cùng vì đã giúp tôi tìm được em trai mình và nhiều lần tôi đã
cầu nguyện xin Ngài tha thứ cho tôi tất cả những điều sai trái mà tôi đã làm.
Trong
suốt chiến dịch đó, khi Mục sư Annacondia đang giảng về những rào cản ngăn trở
ơn phước Chúa đến với chúng ta, lòng tôi đã có thể tha thứ cho người khác. Tôi
thấy có điều gì đó giống như là các thiên sứ đang bay chung quanh tôi và bàn
tay Chúa đang cất bỏ mọi oán ghét và thù hận ra khỏi đời sống tôi. Tôi khóc lớn
tiếng từ những nơi sâu thẳm của linh hồn mình, xin Chúa tha thứ từng điều một
mà tôi đã âm mưu nghịch cùng cha tôi và chồng tôi, đến nỗi cuối cùng tôi khan
cả tiếng, không nói được. Từ đáy lòng, tôi đã có thể tha thứ cho họ, điều đó đã
giúp tôi tìm được sự chữa lành cho trái tim tan nát. Mặc dầu biết Chúa nhiều
năm nhưng tôi thực sự chưa bao giờ có thể tha thứ. Bức tường ngăn trở, sự không
tha thứ đó, đã cản trở ơn phước Ngài đến trên đời sống tôi.
Đức
Chúa Trời đã cất khỏi tôi sự oán ghét đối với những người đàn ông và Ngài đã
cất đi sự đề kháng mà tôi có với chồng tôi. Ngài đã cất sự cay đắng khỏi lòng
tôi, ban cho tôi sức mạnh mới, và trên tất ca, Ngài phục hồi cuộc hôn nhân của
tôi.
Tôi
xin dâng cho Chúa tất cả sự vinh hiển và tất cả sự tôn kính vì những thay đổi
Ngài đã đem lại cho cuộc đời tôi và vì tôi tớ Ngài, công cụ được chọn của Ngài
là Carlos Annacondia, Người đã đưa tôi đến chỗ hiểu biết lẽ thật.
CARMEN
Lời
chứng của người phụ nữ nầy đã để lại một ảnh hưởng mạnh mẽ, không những trong
đời sống cô ta, mà trong cuộc đời của nhiều người khác, là những người đã nghe
câu chuyện về cuộc đời của cô, nhiều lời làm chứng khác đã được chia sẻ từ bục
giảng. Sự kinh ngạc và thán phục của tôi trước sự đáng kinh sợ và quyền năng
siêu việt của Chúa không bao giờ ngừng lại.
Buổi
tối hôm đó, khi cảm tạ Chúa về tất cả những phép lạ đã xảy ra, tôi hiểu mục
đích của Ngài qua cuộc đời tôi và ý muốn Ngài dành cho sự kêu gọi của tôi.
Tôi
không hiểu vì sao từ khi còn là một cậu bé dầu lúc ấy tôi chưa tiếp nhận Chúa vào
lòng, tôi luôn nhận biết rằng có một hữu thể mạnh hơn, là Đấng tôi không thấy
được, đang gìn giữ tôi. Một đôi lần tôi nói với vài người bạn tôi về cảm giác
ấy.
Giống
như nhiều người Argentina khác, tôi xuất thân từ một gia đình nhập cư, mẹ tôi
là người Tây Ban Nha, bố tôi là người Ý. Tôi được dưỡng dục theo văn hóa Ý. Ông
nội tôi, một người Ý điển hình, thường dạy tôi rằng “Đàn ông mà khóc thì không
phải là đàn ông. Nếu có đứa nào đánh con, đừng khóc mà chạy đến ông; con hãy
đánh lại nó”. Điều đó và nhiều lời dạy dỗ khác đã hình thành lối sống tôi từ
khi tôi còn là một cậu bé.
Bố
tôi thuộc giai cấp thấp kém. Khi còn nhỏ, gia đình tôi sống trong một căn hộ
chung cư, bố mẹ và ba anh em tôi, Angel, anh lớn nhất, Jose María, người con
út, và tôi ở giữa. Bố tôi làm việc cho một công ty điện tử, còn mẹ chăm sóc
chúng tôi.
Mọi
sự đều thay đổi khi bố tôi bệnh nặng, chúng tôi phải đi làm. Lúc ấy tôi chỉ mới
mười tuổi, nhưng mỗi buổi sáng tôi phải dậy sớm để làm việc trong một cửa hiệu
bán thịt. Sau khi làm việc cả ngày tại đó và lau dọn xong, tôi trở về nhà, rồi
ngay sau đó phải đi học lớp đêm. Nhiều buổi sáng, khi thức giấc, tôi nói với mẹ
là tôi bị đau bụng, song thực ra chỉ vì tôi không muốn đi làm. Mẹ tôi thường
chuẩn bị cho tôi một tách trà rồi đưa tôi đi làm. Đó là cách tôi học để có
trách nhiệm và vì thế tôi đã bắt đầu lớn lên.
Sách
Châm ngôn chép rằng: “Kẻ làm việc biếng nhác trở nên nghèo hèn, còn tay kẻ
siêng năng làm cho được giàu có (Châm Ngôn 10:4). Mọi thứ tôi đảm nhận đều trở
nên phát đạt. Ai cũng thích tôi. Ngay cả khi tôi phục vụ trong quân đội năm tôi
hai mươi tuổi, tôi đã được phái đến làm việc ở nơi tốt nhất. Không ai hiểu nỗi
tôi đã làm gì để được vị trí đó. Họ giao cho tôi các công việc tốt nhất và đề
bạt tôi lên các vị trí cao hơn trong quân đội. Tôi luôn đi trước những bạn đồng
lứa.
Năm
hai mươi mốt tuổi, tôi gặp María, vợ tôi, lúc ấy chỉ mới mười lăm. Ông tôi
thường bảo tôi hãy tìm một cô bạn gái trẻ để có thể dạy dỗ cô ấy cho tốt. Chúng
tôi kết hôn khi tôi hai mươi lăm và María mười chín, sau đó anh tôi và tôi bắt
đầu thành lập công ty mà tôi làm việc cho đến nay.
Thời
gian trôi đi, tôi thấy có một khoảng trống lớn trong đời sống mình. Lòng tôi có
nỗi sợ hãi, mục tiêu của cuộc đời tôi là phải có được sự bình an và hạnh phúc.
Tôi nghĩ mình có thể đạt được hai điều đó nhờ thành công và được công nhận
trong công việc. Vì vậy, tôi làm việc rất nhiều, tưởng rằng tích lũy của cải và
làm ra tiền thì cuối cùng tôi sẽ hạnh phúc. Năm ba mươi lăm tuổi tôi đạt đến
địa vị vững chắc về mặt tài chính như mong muốn. Cùng với hai anh em tôi, chúng
tôi đã tạo lập được công ty quan trọng nhất trong đất nước mình. Tôi có thể mua
bất cứ thứ gì mình muốn và cho María vợ tôi và bốn con tôi bất cứ điều gì chúng
xin. Như vậy theo suy nghĩ của tôi cùng với nhiều người khác, tôi hẳn là một
người hạnh phúc.
Song
tôi vẫn cảm thấy nỗi trống vắng to lớn ấy, và tôi nhận ra rằng mình đã sai lầm
khủng khiếp. Không một điều nào trong số những gì tôi nỗ lực đạt được có thể
mang lại bình an hoặc hạnh phúc. Mỗi cuối tuần, nặng nề bởi những nan đề của
tôi, María và tôi thường chuẩn bị cho các con đến một khu nghỉ mát mùa hè tại
bãi biển Đại Tây Dương. Tìm kiếm chút bình an và yên tĩnh nào đó. Nhưng khi trở
lại với công việc, tôi lại cảm thấy tồi tệ hơn trước. Tối đến tôi không ngủ
được, có những nỗi sợ hãi mơ hồ, bất an và lo lắng. Tôi sợ chính cuộc sống, sợ
sự chết, bệnh tật, sợ mất những gì tôi đang có, sợ điều gì đó khủng khiếp xảy
đến với các con tôi. Thậm chí tôi mang một mặc cảm tội lỗi vì đã đưa chúng vào
thế giới đầy dẫy chiến tranh, bạo lực và ma túy nầy. Vì vậy tôi quyết định
trong lòng rằng sẽ không có thêm đứa con nào nữa.
Từng
tháng đi qua, rồi lại từng năm, tôi cảm thấy ngày càng tồi tệ hơn. Tôi có đủ
mọi lý do để hạnh phúc, thế mà tôi vẫn không vui thỏa. Tôi tự hỏi không biết có
thể tìm được bình an và vui thỏa ở đâu; tôi bắt đầu cho rằng hai điều ấy chỉ là
sự tưởng tượng của tâm trí mà thôi.
Lúc
đó, tôi là thành viên của một nhóm doanh nghiệp có uy tín. Trong mỗi buổi họp,
tôi không chỉ được giới thiệu là Carlos mà là ông chủ của công ty nầy công ty
nọ. Họ chẳng quan tâm đến con người thực của tôi. Họ chỉ quan tâm đến những gì
tôi làm chủ. Tôi bắt đầu chú ý đến sự thiếu thành thật trong loại quan hệ ấy,
và tôi xa rời những kẻ tự xưng họ là bạn bè của tôi.
Cho
đến lúc ấy tôi cũng không hề băn khoăn về Đức Chúa Trời, mặc dầu tôi đã chịu
phép rửa và làm lễ thành hôn trong một nhà thờ Thiên Chúa Giáo. Tôi tin nơi một
Đức Chúa Trời xa cách, vô tình đối với những kẻ chỉ có thể thưa chuyện với Ngài
qua một người trung gian. Tôi đã không biết Chúa là Đấng quan tâm đến tôi và
muốn có một mối tương giao cá nhân với tôi. Tôi cũng không biết mình có thể làm
bạn của Ngài, hiểu biết Ngài và có mối tương quan mật thiết với Ngài.
Vào
một ngày nọ trong năm 1979 tôi đã được nghe Tin Lành. Tôi đã nghe Chúa phán
rằng: “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng , hãy đến cùng ta , ta sẽ cho các
ngươi được yên nghỉ ” (Ma-thi-ơ 11:28). Tôi được mời đến một buổi nhóm nơi Mục
sư Manuel Ruiz, vị sứ giả người Panama ở tại Bôlivia vào lúc ấy đang giảng.
Trong buổi nhóm tôi nhận ra rằng nhà truyền đạo đang nói trực tiếp với tôi, với
lòng tôi. Ông nói “Bạn đang bị đè nặng bởi những nỗi sợ hãi, những sự bất an và
thất bại. Mọi điều đó hiện đang ở trước mặt Đức Chúa Trời. Hãy dâng lòng mình
cho Ngài, Ngài sẽ chăm sóc không những gia đình bạn mà cả đến những nan đề của
bạn”.
Khi
nghe những lời ấy, tôi đã bật khóc như chưa từng được khóc từ nhiều năm nay.
Khi nghe được tiếng Chúa qua một trong các đầy tớ Ngài, tôi nhận ra rằng Chúa
yêu tôi, Ngài vẫn nhớ đến tôi. Khi vị truyền đạo hỏi có bao nhiêu người cần
Chúa, tôi đã đưa tay lên vì tôi thật sự cần Ngài bằng cả tấm lòng. Tôi hỏi vợ
tôi, lúc ấy đang ngồi ngay bên cạnh tôi, rằng nàng có muốn tiếp nhận Chúa Jesus
không? Nàng trả lời “Em đã chờ đợi giờ phút nầy từ lâu rồi”.
Khi
tôi đưa tay lên, tôi có cảm tưởng như nó nặng đến hàng tấn. Mọi thứ suy nghĩ
tràn đến tâm trí tôi. Bạn bè, gia đình tôi và những nhà doanh nghiệp trong câu
lạc bộ sẽ nói gì? Các giám đốc nhà băng làm việc với tôi sẽ nghĩ gì? Còn những
tay quản trị thương mại và các nhà doanh nghiệp khác thì sao? Liệu họ có chế
giễu và cười nhạo tôi vì đã quyết định mời Chúa ngự vào lòng mình không? Nhưng
trước mặt tôi là một Đấng lớn hơn tất cả những người ấy hợp lại.
Vào
đêm 19 tháng 5 năm 1979 chính xác là vào 10h30, María và tôi đã mời Chúa Jesus
ngự vào lòng mình. Tôi không bao giờ quên điều xảy ra khi rời buổi nhóm đó. Lúc
chúng tôi bước ra, mọi sự dường như đã đổi khác. Tôi đã không thể mua được sự
bình an hay sự vui thỏa bằng tiền bạc hay thành công. Nhưng Chúa Cứu Thế đã ban
tất cả cho tôi như một món quà chỉ vì Ngài yêu tôi. Chưa bao giờ có điều gì
trong đời có thể mang lại một sự thay đổi kỳ diệu như điều đã xảy ra khi tôi
đưa tay lên tiếp nhận Ngài. Mỗi ngày qua đi tôi lại càng thấy vui thỏa hơn. Tôi
ngưng hút thuốc và uống rượu. Tôi bỏ lại mọi nghi ngờ và sợ hãi đàng sau. Tôi
vốn là người ghiền Tivi, nhưng kể từ ngày gặp Chúa không hiểu sao tôi quên xem
Tivi. Mọi sự đã thay đổi.
Sau
khi tin nhận Chúa, tôi đã có thêm năm đứa con nữa. Đến nay, gia đình tôi gồm vợ
tôi, chín đứa con và ba đứa cháu. Các con tôi là Carlos Alberto, Angel, María
Eugenia, José María, Rebeca, Moises, Elias, Rut, và Natanael. Ngày nay chúng
tôi thật sự vui mừng.
Bởi
vì María và tôi trở thành những Cơ Đốc Nhân trong cuộc truyền giảng, nên chúng
tôi không có hội thánh địa phương để tham gia. Đó là lý do khiến chúng tôi
quyết định, cùng với những gia đình khác đã dâng đời sống mình cho Chúa trong
cùng kỳ truyền giảng đó, bắt đầu nhóm lại với nhau.
Cùng
với chúng tôi có một số công nhân trong công ty của chúng tôi: có vị trưởng
phòng kinh doanh là người chịu trách nhiệm về một trong các gian hàng của chúng
tôi, và một vài người khác. Chúng tôi tìm một Mục sư để dẫn dắt chúng tôi.
Không ai trong chúng tôi biết cách giảng dạy, nhưng Chúa đã đặt để một Mục sư
giữa vòng chúng tôi. Suốt trong thời gian ban đầu đó, Mục sư Gomelsky đã giúp
chúng tôi tăng trưởng. Cùng với ông chúng tôi đã nung nấu khải tượng về việc
chinh phục những linh hồn cho Chúa Cứu Thế. Chúng tôi nhiệt thành đến nỗi mặc
dù hiểu rất ít về Chúa, chúng tôi đã giảng Tin Lành cho mọi người, chia sẻ
chính kinh nghiệm của mình. Đức tin chúng tôi thật giản dị và không theo cấu
trúc nào cả, thế mà người ta vẫn được cứu và được chữa lành. Sứ điệp quan trọng
nhất của chúng tôi là Tin Lành của Chúa Cứu Thế Jesus và tình yêu Ngài dành cho
chúng ta. Chúng tôi cầu nguyện cho người đau, tin rằng họ sẽ được lành, và họ
đã được lành. Chúng tôi rao giảng sự cứu rỗi, không hề nghi ngờ người đứng trước
chúng tôi sẽ tiếp nhận Chúa.
Khi
thành lập Hội Thánh của mình vào năm 1979, tất cả chúng tôi đều là những người
mới tin Chúa. Chúng tôi bắt đầu với bốn cặp vợ chồng cùng con cái của họ. Chúng
tôi là các cộng tác viên, là các chấp sự, và các trưởng lão của Hội Thánh.
Nhưng Đức Chúa Trời đã làm đầy nơi nầy rất nhanh.
Một
tuần sau khi tin Chúa, tôi nhận được lời hứa Báptem bằng Thánh Linh cùng với
dấu hiệu nói tiếng mới. Đức Chúa Trời đã cho tôi một khải tượng: Tôi thấy một
khán đài đầy người và chính mình đang giảng bằng một thứ tiếng mà tôi không
hiểu. Từ giờ phút đó trở đi tôi cảm biết một gánh nặng đối với những người chưa
biết Chúa Cứu Thế. Tôi giảng về Chúa cho bất cứ người nào tôi gặp.
Mặc
dầu vẫn đi làm nhưng điều quan trọng nhất trong cuộc đời tôi là hầu việc Chúa
chứ không phải kiếm tiền. Các thành viên trong gia đình tôi là những người chưa
biết Chúa và không thể chấp nhận rằng cuộc đời tôi đã tận hiến cho Ngài. Họ cố
gắng thuyết phục tôi nhìn ra “sai lầm” của tôi, trích dẫn những lời khuyên khôn
ngoan và quan trọng nhất của các người bạn tôi. Những cuộc đối thoại nầy luôn
kết thúc bằng việc tôi làm chứng và họ dâng đời sống mình cho Chúa.
Suốt
những ngày đầu bước đi theo Chúa, một điều thật kinh ngạc đã xảy ra cho tôi.
Trong giờ tôi cầu nguyện, Chúa luôn tỏ cho tôi những khu phố lụp xụp. Tối đến
khi nhắm mắt lại, tôi có thể thấy những khu vực nghèo nàn bị xã hội xa lánh:
trẻ con đi chân đất, nhà cửa làm bằng thùng cáctông và mái tôn. Thoạt đầu tôi
không hiểu Chúa muốn nói gì, tôi nghĩ mình phải rời bỏ hoặc cho đi các tài sản
của mình, kể cả cổ phần của tôi trong công ty; đơn giản là cho những người
nghèo tất cả mọi thứ. Tôi cảm thấy gánh nặng của Chúa và dành nhiều ngày cầu
nguyện khóc lóc, tôi không thấy bình an chút nào, khi tôi cầu nguyện với María
về điều đó, Đức Thánh Linh cảm động nàng và nàng nói “Em hiểu anh”. Nhưng tôi không
thể tìm được chút yên ủi.
Một
buổi chiều nọ tôi nói với María “Anh muốn bỏ lại mọi sự đàng sau và dọn đến
Chaco để giảng đạo trong rừng. Em có muốn đi với anh không?”
Câu
trả lời của nàng là “Em sẽ đi bất cứ nơi nào anh đi”.
Trong
buổi chiều hôm đó tôi rời khỏi nhà và quyết định cho đi mọi thứ. Điều đầu tiên
tôi làm là cho bố tôi chiếc xe hơi mới toanh, vì ông đang cần một chiếc.
Sau
đó tôi đến nói chuyện với Mục sư của tôi là ông Gomelski. Sau khi đưa ra một số
ý kiến về điều tôi nói với ông, ông nói “Anh đã làm việc rất chăm chỉ để có
được những gì anh có; anh không ăn cắp. Vì vậy chỉ hãy sử dụng tài sản của anh
cho Chúa khi nào Ngài phán bảo”.
Lúc
ấy tôi có cảm giác giống như Ápraham khi ông đưa dao lên, sẵn sàng giết con
mình. Khi Đức Chúa Trời nhìn thấy tôi tớ Ngài không do dự mà sẵn sàng thi hành
mạng lệnh của Ngài, thậm chí phó giao chính con trai mình, Chúa đã giữ tay
Ápraham lại. Đức Chúa Trời biết của báu của tôi không bao gồm những tài sản vật
chất mà còn có cả tình yêu tôi dành cho Ngài và cho những con người hư mất.
Ngày nay tôi nhận ra rằng từ bỏ mọi sự sẽ là một sai lầm, bởi vì đối với nhiều
người, kể cả gia đình tôi, điều đó có thể là sự tai tiếng nhục nhã chứ không
phải là một phước hạnh.
"Ta
Ban Cho Điều Con Cầu Xin"
Một
ngày nọ, sau khi tin Chúa được hai năm rưỡi, Mục sư của tôi trao cho tôi giấy
mời giảng cho một Hội Thánh rất khiêm nhường ở thành phố La Plata trong tỉnh
Buenos Aires. Cầm thư mời trong tay, tôi cảm nhận trong lòng điều gì đó rất đặc
biệt từ nơi Chúa và vì vậy tôi đã nhận lời.
Hội
Thánh ấy nghèo đến nỗi không có sàn nhà mà chỉ là những mảnh thảm cũ nằm trên
đất. Hội chúng gồm hai mươi lăm người. Tối hôm ấy sau khi giảng, Đức Thánh Linh
đã ngự đến bằng quyền năng mạnh mẽ đến nỗi mọi người trong nhà thờ đều nhận
được Báptem bằng Thánh Linh. Lúc kết thúc giờ nhóm, vợ của vị Mục sư đến gặp
tôi, bà nói “Đức Chúa Trời đã phán cùng tôi rằng người rao giảng buổi tối hôm
nay sẽ trở thành người đem cơn phục hưng đến cho thành phố La Plata. Dấu hiệu
sẽ là việc đổ đầy Thánh Linh trên mọi người bằng quyền năng của Đức Chúa Trời”.
Không
có nhiều người trong buổi nhóm ấy nhưng có hai anh em từ một Hội Thánh thuộc
thành phố Berisso, một nơi gần La Plata cũng có mặt. Họ mời tôi sắp xếp một
cuộc truyền giảng tại Hội Thánh của họ. Đó là cách tôi đã khởi sự rao giảng.
Sau chiến dịch truyền giảng đầu tiên ấy, vì cớ số lượng lớn các chiến dịch
truyền giáo đang được tổ chức, chúng tôi cùng nhau sắp đặt một tổ làm việc mà
chúng tôi gọi là Mensaje de Salvacíon (Sứ Điệp Cứu Rỗi).
Vào
ngày 12/4/1982, Đức Chúa Trời phán với tôi bằng tiếng phán có thể nghe được.
Ngài bảo “Hãy đọc sự hiện thấy về trũng xương khô trong Êxêchiên đoạn 37. Từ
nay trở đi ta sẽ ban cho ngươi điều ngươi cầu xin”.
Lời
cầu nguyện của tôi là “Argentina thuộc về Đấng Christ”. Tôi muốn Ngài bày tỏ
các phép lạ siêu nhiên cho đất nước tôi để đồng bào tôi sẽ biết đến Ngài. Tôi
không ra đời nơi sa mạc hay rừng rú, mà ở một nơi có hàng triệu người sống,
song chẳng hề có một ai từng nói về Chúa cho tôi. Tôi đã không được nghe nói về
Ngài cho đến khi có người nói với tôi về những phép lạ siêu nhiên đã xảy ra
trong chiến dịch truyền giảng nơi tôi đã tin nhận Chúa. Chính những phép lạ ấy đã
thu hút tôi tìm gặp được Chúa. Bấy giờ tôi hiểu rằng nếu không có những phép lạ
về Đức Chúa Trời ở Argentina, thì người ta sẽ chẳng tin. Trong các sách Tin
Lành các dấu lạ siêu nhiên không phải cho những kẻ tin mà là cho những kẻ chưa
tin . Trong đất nước tôi “thấy thì tin” là một điều tất yếu.
Khi
đọc Êxêchiên đoạn 37 tôi hiểu rằng chính hơi thở của Đức Thánh Linh đã mang lại
các phép lạ.
Ngài
bèn phán cùng ta rằng “Hãy nói tiên tri về hài cốt ấy, và bảo chúng nó rằng:
Hỡi hài cốt khô, khá nghe lời Đức Giêhôva. Bấy giờ Ngài phán cùng ta rằng “Hỡi
con người hãy nói tiên tri cùng gió. Hãy nói tiên tri và bảo gió rằng: Chúa
Giêhôva phán như vầy: “Hỡi hơi thở, khá đến từ gió bốn phương, thở trên những
người bị giết, hầu cho nó sống”. Vậy ta nói tiên tri như Ngài đã phán dặn ta và
hơi thở vào trong chúng nó, chúng nó sống và đứng dậy trên chơn mình, hiệp lại
thành một đội quân rất lớn. (Êxêchiên 37: 4,9-10)
Người
dân đã bắt đầu nghe về Mensaje de Salvacíon (Sứ điệp cứu rỗi) bởi vì tất cả
những phép lạ đã xảy ra trong các buổi nhóm của chúng tôi. Người ta chạy lên
tòa giảng để tiếp nhận Chúa. Ngày nay tôi có thể bảo đảm với bạn rằng không
phải mọi sự tôi đã trải qua trong việc đáp lại sự kêu gọi của mình là dễ dàng
đâu. Có những điều xảy ra trong đời sống mà tôi không thể hiểu được.
Khi
tôi được Báptem bằng Thánh Linh thì điều nầy đã xảy ra. Các anh em có mặt trong
buổi tối hôm đó đã nhìn thấy vài điều đặc biệt từ Chúa trên tôi. Sau đó trong
một buổi nhóm, vị Mục sư hỏi tôi có thể giúp ông cầu nguyện cho người bệnh
không. Khi tôi khởi sự cầu nguyện, người ta bắt đầu ngã xuống từng người một.
Việc nầy không phải là điều lạ đối với tôi. Tôi đã nhìn thấy người ta ngã trong
chiến dịch truyền giảng của giáo sĩ người Panama nhưng tôi thật ngạc nhiên khi
nhận thấy điều đó thực sự xảy ra cho tôi. Sau một hồi, tôi ngưng cầu nguyện cho
những người khác cho đến khi Chúa phán trực tiếp với tôi rằng Ngài muốn sử dụng
tôi.
Một
ngày nọ tôi đi tìm mua một chiếc xe hơi. Khi người chủ xe mở cửa trước của xe
và chỉ cho tôi xem xe, thình lình có điều gì đó xảy ra. Trong nhà ông ta, vợ và
con gái ông bắt đầu biểu lộ những hành động của ma quỉ, bà vợ khởi sự đập vỡ đồ
đạc chung quanh nhà. Ông chồng chạy vào và cuối cùng đã ngăn được bà. Tà linh
đã hành hạ người phụ nữ nầy trong một thời gian. Người chồng cho biết họ đã
từng tin Chúa và đã bỏ Chúa cũng như phạm nhiều lỗi lầm.
Sau sự việc đó, tôi nhận biết chẳng có điều gì phụ thuộc vào tôi cả. Tà linh trong người đàn bà ấy đã biểu lộ ra, và tôi thậm chí còn không biết bà ta đang ở trong nhà. Điều xảy ra đó nằm ngoài tầm kiểm soát của tôi. Nhưng sau đó Chúa đã cho tôi điều gì đó đặc biệt đến nỗi dầu tôi ở đâu, Đấng ngự trong lòng tôi cũng vẫn tự bày tỏ chính Ngài và khiến ma quỉ trốn chạy. Và rồi tôi nhận ra rằng tôi không phải là người điều khiển tình huống mà chính là Chúa. Vì vậy tôi đầu phục chính mình hoàn toàn cho Ngài.
Sau sự việc đó, tôi nhận biết chẳng có điều gì phụ thuộc vào tôi cả. Tà linh trong người đàn bà ấy đã biểu lộ ra, và tôi thậm chí còn không biết bà ta đang ở trong nhà. Điều xảy ra đó nằm ngoài tầm kiểm soát của tôi. Nhưng sau đó Chúa đã cho tôi điều gì đó đặc biệt đến nỗi dầu tôi ở đâu, Đấng ngự trong lòng tôi cũng vẫn tự bày tỏ chính Ngài và khiến ma quỉ trốn chạy. Và rồi tôi nhận ra rằng tôi không phải là người điều khiển tình huống mà chính là Chúa. Vì vậy tôi đầu phục chính mình hoàn toàn cho Ngài.