Chương
4: TÀ LINH HỌC 101
Một
thực tế mà chúng ta đối diện mỗi ngày là những con người sẽ đối đầu với các thế
lực của ma quỉ. Tựa đề không có gì mới lạ đối với những người đã đọc Kinh
Thánh. Trong Kinh Thánh chúng ta đọc thấy những người đã được giải cứu khỏi tà
ma. Câu chuyện sau đây là một ví dụ về loại thế lực ma quỉ mà chúng tôi thường
đối đầu trong chức vụ hầu việc của mình:
"Satan Đã Cột Trói Tôi"
Trong
bốn mươi hai năm tôi bị chứng trầm cảm. Ngay khi còn là một cô bé, chứng trầm
cảm nầy đã tách tôi khỏi những đứa trẻ khác, tôi không muốn chơi đùa với chúng.
Tôi nhớ tôi luôn luôn leo lên một cây lê ở phía sau nhà. Tại đó tôi có thể ẩn mình
khỏi thế giới chung quanh.
Tôi
có năm chị em gái, nhưng không có ai giống tôi cả. Họ luôn vui cười. Nhiều
người nói với mẹ tôi rằng “Cô bé nầy thật ngoan làm sao!” điều họ không biết là
lý do khiến tôi im lặng như vậy là bởi vì có một nỗi kinh hoàng bên trong tôi.
Tôi không biết chơi đùa, tôi không biết vui cười.
Toàn
bộ cuộc đời của tôi đã bị ảnh hưởng ghê gớm bởi điều trải qua khi còn thơ ấu,
liên quan đến cha tôi, một con người luôn say sưa. Ông ta thường đánh đập mẹ và
các chị em tôi, luôn luôn mang theo vũ khí và lúc nào cũng dọa nạt chúng tôi.
Ông còn nói rằng ông sẽ giết hết chúng tôi đang khi chúng tôi ngủ. Vì thế mỗi
đêm tôi cố gắng thức cho đến khi tôi quá buồn ngủ và thiếp đi. Tôi luôn sợ hãi
và có những ác mộng, tôi thường thức giấc và nhìn thấy bóng một người đàn ông
mở cửa phòng tôi, người ấy mặc áo khoác và đội mũ của bố tôi.
Mỗi
khi sợ hãi tôi thường chạy ra sân sau và ngồi hàng giờ bên cạnh gốc cây lê. Gia
đình không biết có chuyện gì đã xảy ra với tôi nên họ không thể giúp đỡ tôi.
Mối
quan hệ giữa bố mẹ cũng như với chúng tôi đã để lại ấn tượng xấu suốt phần còn
lại của cuộc đời tôi. Vì điều đó, tôi không muốn lập gia đình. Có lẽ tôi đã tự
trói buộc mình, tôi không muốn trải qua những điều mà mẹ tôi đã trải qua.
Nỗi
buồn chán tiếp tục đeo đuổi thời kỳ thanh xuân và cuộc đời trưởng thành của
tôi. Tôi luôn nhốt mình trong căn phòng tối hoàn toàn. Tôi hút thuốc suốt ngày,
uống rượu, và chơi bói bằng ly. Tôi cũng có một khuynh hướng mạnh mẽ đối với tà
thuật. Tôi thích điều đó. Tôi luôn cố gắng di chuyển các vật thể bằng sức mạnh của
tâm trí, và tôi thường xem chỉ tay. Tôi cũng chơi bài tarốc (loại bài 78 lá
dùng để bói), dự đoán tương lai của những người đến với tôi. Tất cả những xiềng
xích nô lệ đó đã kéo tôi đến một cái hố cô độc, thậm chí còn sâu hơn.
Một
ngày nọ, mẹ kể cho tôi nghe về những buổi nhóm đang diễn ra ở tại thành phố
Moreno. Đó là một trong các buổi truyền giảng của Annacondia. Ngay lập tức tôi
cảm thấy mình cần phải đến đó. Những ngày sau đó, có một tiếng nói rất lớn bắt
đầu bảo tôi hãy uống thuốc độc và hãy tự tử để kết thúc nỗi khốn khổ của tôi.
Nhưng tôi đau yếu đến nỗi không đủ sức đi ra ngoài để mua thuốc độc.
Chiến
dịch truyền giảng kéo dài năm mươi hai ngày nhưng tôi chỉ có thể đến đó bốn
ngày trước khi chiến dịch kết thúc. Lúc ấy, ma quỉ không ngừng thúc ép tôi phải
tự tử. Một buổi chiều nọ mẹ tôi bảo tôi đi ra ngoài. Chúng tôi lên một chiếc xe
buýt chạy ngang ngay trước trại nơi buổi truyền giảng được tổ chức. Tôi bắt đầu
gào thét đòi xuống khỏi xe, tôi la lớn đến nỗi tất cả các hành khách đều nhìn
chằm chặp vào tôi, và người tài xế phải dừng xe để chúng tôi xuống. Vừa xuống
khỏi xe tôi lao mình chạy vào trại nơi buổi truyền giảng đang diễn ra.
Vào
ngày 12 tháng 2 năm 1987 tôi đã tiếp nhận Chúa Jesus vào lòng. Đêm đầu tiên đó
tôi không muốn rời buổi truyền giảng. Tôi quá vui mừng, đời sống tôi đã được
thay đổi, nỗi buồn chán biến mất. Trong các buổi nhóm tiếp sau đó có điều gì
trong tôi không cho phép tôi đứng lên phía trước để Mục sư Annacondia cầu
nguyện cho tôi. Nhưng đêm cuối của chiến dịch, cuối cùng tôi đã đứng lên được.
Khi họ bắt đầu cầu nguyện thì tôi run rẩy không kiềm chế được. Những người khải
đạo đưa tôi vào trại giải cứu, tại đó họ đã tiếp tục cầu nguyện cho tôi. Tôi đã
xưng nhận nhiều điều trong tấm lòng kể cả sự thù ghét và cay đắng. Ma quỉ đã trói
buộc tôi trong nô lệ, nặng nề đến nỗi tôi ở trong tình trạng hết sức đau khổ.
Dầu vậy khi tôi quyết định trong lòng phải được buông tha thì Đức Chúa Trời lập
tức đem đến sự thay đổi.
Nhiều
lần tôi phải công bố trước mặt Đức Chúa Trời những điều đã giấu kín tận đáy
lòng tôi. Một trong những lần đó xảy ra khi tôi đang cầu nguyện với những người
khác, có người nào đó được Chúa cho biết rằng tôi còn linh bói toán ở trong
mình và tôi còn liên hệ với các lá bài tarốc. Vì vậy họ bắt đầu quở trách tà
linh và cầu nguyện cho tôi được giải cứu. Thình lình chúng tôi nghe một tiếng
động lớn giống như một chiếc ly vỡ và tôi hoàn toàn được giải cứu.
Không
lâu sau đó, gia đình tôi cũng tiếp nhận Chúa. Họ đã chứng kiến sự thay đổi mà
Đức Chúa Trời đem đến trong tôi. Những người hàng xóm nhìn chằm chằm khi thấy
tôi bước ra đường vào ban ngày và thắc mắc không biết điều gì đã xảy ra. Bởi vì
tôi ở trong phòng ngủ suốt ngày và chỉ thức dậy khi bên ngoài hoàn toàn tối.
Tôi luôn sống trong sự tối tăm, thời gian cứ trôi đi còn tôi thì phàn nàn vì đã
không làm được gì suốt ngày. Đó là lý do vì sao tất cả mọi người biết tôi đã
nhìn thấy sự thay đổi ở trong tôi. Bây giờ tôi thức dậy sớm, tôi tươi cười và
đi nhà thờ. Đức Chúa Trời thật sự đã thay đổi đời sống tôi.
MARÍA
Cơ
Đốc Nhân hoặc đánh giá Satan quá thấp hoặc quá cao. Nhưng Đức Chúa Trời dạy
chúng ta đứng vị trí phải lẽ trước mặt các thế lực của ma quỉ. Chúng ta biết
rất rõ rằng Satan như sư tử rống rình mò, và tìm kiếm người nào nó có thể nuốt
được. Chúng ta còn biết rằng “kẻ nào tin ta sẽ được những dấu lạ nầy: lấy danh
ta mà trừ quỉ” (Mác 16:17). Vì vậy đừng sợ. Nếu bạn đặt lòng tin nơi Chúa Cứu
Thế Jesus và vâng theo mạng lệnh của Ngài “Hãy đi giảng Tin Lành”, thì bạn sẽ
đối diện với những phép lạ trong hành trình của bạn.
Ma
quỉ là những hữu thể gian ác không có thân thể vật chất, chúng đi đây đó tìm
kiếm một nơi có thể cư trú. Chúng nói, chúng biện luận, chúng thấy, và chúng
nghe. Có nhiều ví dụ về điều đó; sách Mác cho chúng ta một vài thí dụ. Khi Chúa
Jesus giảng dạy trong nhà hội, những người có mặt đã kinh ngạc trước sự dạy dỗ
của Ngài bởi vì Ngài dạy như một người có quyền. Họ chưa hề nhận thấy uy quyền
nầy nơi những người khác, thậm chí nơi các giáo sư dạy luật. Nhưng có điều nầy
đã xảy ra, một người đàn ông bắt đầu la lên. Lập tức Chúa Jesus nhận biết rằng
tà linh đang nói qua môi miệng người đàn ông nầy rằng: “Hỡi Jesus người Naxarét
chúng tôi với Ngài có sự gì chăng? Ngài đến để diệt chúng tôi sao? Tôi biết
Ngài là ai: là Đấng Thánh của Đức Chúa Trời!” Nhưng Đức Chúa Jesus nghiêm trách
nó rằng: “Hãy nín đi, ra khỏi người nầy!” (Mác 1:24-25).
Chúng
ta hãy xem xét tình huống bất thường nầy trong nhà hội. Điều xảy ra vào thời
điểm Chúa Jesus đang dạy dỗ, chứ không phải trước đó. Người bị quỉ ám đang ở
trong nhà hội, và thật thú vị để lưu ý rằng mặc dầu những người sùng đạo nầy
khâm phục Chúa Jesus và sự dạy dỗ của Ngài, họ đã không nhận ra Ngài là Đấng
Mêsia, nhưng ma quỉ thì biết.
Chỉ
với tâm linh mới có thể nhận biết thế giới tà linh. Đây là điều đã xảy ra khi
Chúa Jesus nghe người đàn ông hét lên, lập tức Ngài bảo nó hãy im lặng và ra
khỏi người đó. Ma quỉ vật vã để ở lại, nó vật người đàn ông dữ dội, cuối cùng
xuất ra với một tiếng hét. Sau đó người ta bắt đầu nhận biết rằng Chúa Jesus có
uy quyền thuộc linh, họ hỏi nhau: “Ấy là đạo gì đó? Người lấy phép và quyền
đuổi tà ma, và chúng nó liền ra!” (Luca 4:36).
Những
Biểu Hiện Của Ma Quỷ
Ma
quỉ biểu lộ nhiều cách khác nhau trong mỗi con người khác nhau bị nó chiếm hữu.
Những Người Bị
ức Hiếp
Chúng
ta thường thấy những người bị ức hiếp về mặt tâm linh. Sự ức hiếp nầy đến từ
bên ngoài và không bao giờ ngưng nghỉ. Mục đích duy nhất của nó là nhằm bẻ gãy
sự chống cự của chúng ta. Nó thể hiện qua những sự cám dỗ và những bắt bớ. Cơ
Đốc Nhân là những người thường phải chịu loại ức hiếp nầy. Phương cách của ma
quỉ chính là cố gắng để đưa con người trở lại với nếp sống tội lỗi cũ. Đó chính
là lý do mà Kinh Thánh truyền cho chúng ta đừng cho ma quỉ nhơn dịp, mà phải
chống cự nó.
Những Người Bị
Khốn Khổ
Ma
quỉ thường làm khổ con người. Trong loại biểu hiện nầy, tà linh tấn công từ bên
trong. Đó là sự sợ hãi, buồn chán và khổ sở. Chúng ta phải làm rõ điều nầy: Một
người bị ma quỉ làm khổ biểu hiện có nan đề thuộc linh không nhất thiết là bị
quỉ ám. Trên thế giới nầy không có nhiều người bị quỉ ám, nhưng có rất nhiều
người bị ma quỉ làm khổ. Người ấy không bày tỏ sự chống đối nào nhưng ma quỉ
thì có ở đó, và chúng ta phải đuổi chúng ra, như chúng ta đã được truyền bảo
phải làm ở Mác 16:17, phải nhơn danh Chúa Jesus mà đuổi chúng ra.
Chúng
ta hãy xem trường hợp của người đàn bà xứ Phênixi người đã thưa cùng Chúa Jesus
rằng: “Con gái tôi mắc quỉ ám, khốn cực lắm” (Ma-thi-ơ 15:22).
Sau
một cuộc đối thoại ngắn, Chúa Jesus đã bảo bà: “Hãy đi, vì ma quỉ đã ra khỏi
con gái ngươi rồi” (Mác 7:29). Nếu ma quỉ “đã ra khỏi con gái ngươi rồi,” thì
chính là vì ma quỉ đã ở bên trong . Nếu không, có lẽ Chúa Jesus sẽ nói: “ Ma
quỉ đã lìa con gái ngươi rồi”.
Người
bị khốn khổ không phải như người bị quỉ ám. Chỉ có một vài lãnh vực trong đời
sống người ấy nằm dưới ảnh hưởng ma quỉ bởi vì người ấy đã không giao lãnh vực
đó cho Chúa hoặc vì cớ có một thỏa ước hoặc tình trạng nô lệ nào đó, có thể là
lòng thù hận hoặc oán ghét. Hết thảy chúng ta đều biết rất rõ rằng khi những
cảm xúc ấy bị chôn chặt tận đáy lòng chúng ta, thì một cánh cửa đã mở ra cho
Satan bước vào đời sống chúng ta và gây ra những tàn hại. Điều nầy rất thực chứ
không phải chỉ là một sự tưởng tượng.
Người Bị Quỉ Ám
Những
người tạm thời bị quỉ ám mất khả năng kiểm soát thân thể và ý chí của mình. Sau
khi được giải cứu và giúp đỡ, họ không nhớ những gì họ đã trải qua ngay trước
khi được giải cứu. Người bị quỉ ám không kiểm soát được các hành động của mình.
Họ làm những điều mà sau đó họ không nhớ. Thình lình họ nổi điên, đập vỡ hoặc
đốt cháy đồ đạc. Khi đã bình tĩnh lại, nếu có ai hỏi, họ sẽ nói họ không nhớ gì
cả.
Chúng
ta hãy xem người cha đã mang con trai mình đến cho Chúa Jesus để được giải cứu
khỏi một tà linh đã cướp đi lời nói của cậu bé. Người cha thưa với Chúa Jesus
rằng nhiều lúc tà linh đã bắt đứa trẻ và ném nó xuống đất. Đứa trẻ sùi bọt mép,
nghiến răng, và bị động kinh. Ông ta còn nói thêm rằng con quỉ nầy thỉnh thoảng
còn ném đứa trẻ vào nước hoặc vào lửa toan giết nó đi, song không được. Tôi
thật sự nghĩ người cha nầy có đức tin rất lớn, ông đã mô tả rõ ràng nỗi khốn
khổ của con trai mình và với sự trưởng thành tâm linh ông đã giải thích rằng
một tà linh đã ám vào con trai ông. Người cha cũng nói rằng điều nầy đã xảy ra
từ khi con ông còn nhỏ. Ông ta đã đúng khi tuyên bố rằng đó là một quỉ câm. Con
trai ông không hề nói, không gào thét. Ông mô tả nhiều điều nữa cho thấy đứa
trẻ bị quỉ ám có những biểu hiện bề ngoài, nhưng gào thét không phải là một
trong các biểu hiện ấy.
Bây
giờ chúng ta hãy xem cách Chúa Jesus giải cứu cậu bé nầy. Ngài phán rằng: “Hỡi
quỉ câm và điếc, ta biểu mầy hãy ra khỏi đứa trẻ nầy, đừng ám nó nữa” (Mác 9:25).
Điều đầu tiên mà Chúa Jesus làm là đuổi nó ra, Ngài đã phán rằng: “Hỡi quỉ điếc
và câm hãy lui ra” song nếu con quỉ điếc thật, làm thế nào mà nó lui được?”.
Hỡi anh em, đừng bao giờ quên rằng ma quỉ là cha của kẻ nói dối và là đứa lừa
dối. Hãy xem điều gì xảy ra ngay khi Chúa Jesus quở nó: “quỉ bèn la lớn tiếng
lên, vật đứa trẻ mạnh lắm và ra khỏi; đứa trẻ như chết vậy, nên nỗi nhiều người
nói rằng nó chết rồi” (Mác 9:26). Thật bất ngờ ma quỉ la lớn và gào thét. Như
vậy họ còn tin nó không? Chúa Jesus biết rõ Ngài đang xử lý ai. Nó không thể
lừa được Ngài.
Người Mất trí
Cuối
cùng loại biểu hiện nầy cho thấy một tình trạng sở hữu hoàn toàn và lâu dài. Ma
quỉ đã sở hữu thân thể, linh hồn và tâm linh một người. Điều nầy hoàn toàn trái
ngược với người được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Đó là trường hợp người đàn ông ở
Gađara. Ông ta hoàn toàn bị cô lập với những người khác và có hành vi thật hung
tợn. Ông tự làm hại mình, thường lấy đá rạch mình. Tôi đã thấy những người mất
trí trong các bệnh viện tâm thần. Họ nhìn, nhưng không thấy. Nếu bạn nói chuyện
với họ, bạn không chắc họ có đang lắng nghe hay không. Họ không hiểu gì hết bởi
vì họ hoàn toàn bị các tà linh chế ngự. Có lẽ bạn tự hỏi không biết họ có thể
được giải cứu không. Đức Chúa Trời cũng đầy lòng thương xót họ. Như Ngài đã
giải cứu người đàn ông ở Gađara, Ngài cũng có thể giải cứu những người khác
nữa.
Người Gadara Ở
Thành Phố Córdoba
Buổi
chiều cuối cùng sau chiến dịch truyền giảng sáu mươi ngày tại thành phố
Córdoba, Argentina, sắp kết thúc. Đang khi tôi bước xuống khỏi bục giảng, chuẩn
bị trở về khách sạn, một số anh em chận tôi lại và hỏi tôi có thể cầu nguyện
cho một người điên không. Người đàn ông nầy thật sự điên loạn, ông ta giống
người bị quỉ ám ở Gađara. Ông sống trên các núi, thường nói một mình, ở trần và
đi chân không, đầu tóc ông bẩn không thể tin được (suốt 3 năm, ông không hề
tắm) và để móng tay móng chân dài, ông ta thật sự giống một con thú. Buổi tối
đó tôi thật sự mệt mỏi sau một chiến dịch truyền giảng kéo dài như thế, và ngay
khi tôi sửa soạn đi, thì người ta đem người đàn ông ấy đến để tôi cầu nguyện
cho. Bốn người khiêng cáng mang ông đến.
Khi
tiến đến gần ông ta hơn, Đức Thánh Linh phán với tôi rằng “có hai quân đoàn”.
Nghe
thế, tôi thưa rằng “Lạy Chúa, con không còn sức nữa, giọng con cũng đã khản
rồi”. Song tôi vẫn đặt tay trên anh và quở trách mọi quỉ, rằng “Nhơn danh Chúa
Jesus, hãy thả người nầy ra”. Người đàn ông nầy bỏ chạy một mạch cho đến khi
chúng tôi không còn thấy được ông nữa, vì vậy bởi đức tin tôi công bố ông ta
được buông tha.
Sáu
tháng sau, tôi trở lại thành phố Córdoba để dự một buổi nhóm đặc biệt vào ngày
Lễ Ngũ Tuần. Nhiều người làm chứng lại thể nào Chúa đã chữa lành và giải cứu họ
trong chiến dịch truyền giảng vừa qua của chúng tôi. Giữa vòng những người đó,
có một người nam ăn bận rất lịch sự tiến lên và thuật lại việc Đức Chúa Trời đã
giải cứu anh lúc ấy, những người lãnh đạo thành phố nói với tôi “Carlos, anh có
nhớ người ấy không?” Tôi không mảy may liên hệ được anh ta là ai, nhưng khi anh
ta làm chứng, tôi thật kinh ngạc vì hiểu ra sự thay đổi nơi người nầy.
Sáu
tháng trước, sau khi chúng tôi cầu nguyện cho anh, người “Gađara ở Córdoba” đã
chạy mãi đến giữa đồng trống rồi cứ đứng đó mà gào thét suốt năm ngày trọn. Ma
quỉ thường xuất ra với mỗi một tiếng hét. Vào ngày cuối cùng, anh ta quay bước
về phía trước kia từng là nhà của anh. Khi gia đình nhìn thấy anh, họ không thể
hiểu chuyện gì đã xảy ra, bởi vì anh đã hoàn toàn bình thường trở lại; anh là
một con người đã thay đổi hoàn toàn.
Buổi
tối mà tôi cầu nguyện cho anh, tôi hết sức mỏi mệt, nhưng Đức Chúa Trời không
cần năng lực hay nỗ lực của chúng ta. Ngài là Chúa tể trên mọi sự.
Satan
hành động trong đời sống con người bằng nhiều cách khác nhau, tuy nhiên tất cả
những hành động của nó đều nhắm vào sự cướp, giết, và hủy diệt (Giăng 10:10),
Chúa Jesus tuyên bố rằng ma quỉ từ lúc ban đầu đã là kẻ giết người, rằng không
có lẽ thật ở trong nó. Ngài cũng phán rằng nó nói dối, thậm chí dối trá về
chính bản thân nó, bởi vì nó không những là kẻ nói dối mà còn là cha của hết
thảy những sự dối trá (Giăng 8:44). Liệu chúng ta có thể trông đợi gì nơi một
kẻ trộm cắp, kẻ giết người, kẻ hủy diệt, kẻ dối trá như nó?
Những Sự Rủa Sả Của Gia Đình
Mỗi
khi rủa sả là chúng ta đang mời gọi một con quỉ. Nhiều khi, người ta cần được
giải cứu là vì họ đã bị người khác rủa sả, nhất là những người làm cha làm mẹ.
Một trong những sự rủa sả phổ biến nhất là khi ông bà, cậu, dì, hay cha mẹ dâng
con cháu mình theo yêu cầu của Satan. Chỉ vì họ không biết những hậu quả khủng
khiếp của việc làm đó. Tất cả những lời rủa sả từ thế hệ này sang thế hệ khác
sinh ra những chán nản và thất vọng truyền từ đời cha sang đời con cần phải bị
chặt đứt.
Kinh
Thánh phán rằng có những điều bị buộc ở dưới đất cần phải được mở ở trên trời.
Đó là điều chúng ta cần phải làm. Nền văn hóa Tây Ban Nha, đặc biệt, rất thường
tạo ra những sự cột trói bởi các mệnh lệnh và những sự đoán xét trong gia đình.
Chúng ta đã phải nhận những sự rủa sả kế thừa ngay khi còn nhỏ. Một số ví dụ
như: “Hệt như bố mày”; “Mày thì lúc nào cũng ngu đần”, hoặc “Mày chẳng được cái
tích sự gì”.
Lời
nói ra là lời biểu thị uy quyền. Đức Chúa Trời đã phán và thế giới được tạo
dựng. Lời nói ra có sức mạnh gây dựng, và cũng phá đổ được. Chúng ta rất hay
nghe bố mẹ hoặc anh chị em trong nhà gọi một đứa bé là “đồ khùng” hay “đồ ngu”.
Qua những lời rủa sả đó, chúng ta đã mời gọi các tà linh và cột trói đứa trẻ.
Lời nói có sức mạnh cột trói.
Trước
đây tôi đã phải sửa trị nghiêm khắc một trong các con tôi khi nghe cháu nói với
em nó một điều khủng khiếp. Tôi thật sự buồn bực khi nghe cháu nói như thế.
Đừng bao giờ cho phép những lời như thế được nói ra trong nhà của bạn. Là Cơ
Đốc Nhân, trách nhiệm của chúng ta là phải “chúc phước”, đem phước hạnh đến cho
người khác ngay cả trong lời nói của mình. Bất cứ khi nào trò chuyện với các
con tôi, tôi cũng nói: “Con có khỏe không hả “thiên tài”?, “Con đang bận làm gì
đấy “nhà vô địch?”
Một
số bà mẹ hoàn toàn không biết gì về lẽ thật nầy, vì vậy con cái họ khi lớn lên,
phải gánh trả hậu quả của những gì mẹ chúng đã công bố trên chúng. Tôi biết
những người nam đã bị mẹ họ bảo với họ rằng “sao tao lại sinh mày ra nhỉ”
“Không biết vì sao mà tao lại đẻ ra mày!” Cuộc đời những chàng trai nầy bị ảnh
hưởng nặng nề cho đến khi họ gặp được Chúa Jesus, và cuối cùng những vết thương
của họ đã được chữa lành.
Khi
chúng ta nói những từ như “ngu ngốc” hay “ngu đần” chúng ta bày tỏ sự tức giận
nhất thời. Chúng ta không nhận biết có những hậu quả mình phải trả vì những lời
rủa sả đó trong lãnh vực thuộc linh. Lời làm chứng sau đây của một thanh niên
thật sự phản ánh văn hóa của người Tây Ban Nha và các câu nói tiêu cực thông
thường hay được dùng.
Được Giải Cứu Khỏi Những Rủa Sả Của Thế Hệ Trước
Tôi
sinh ra trong một gia đình mà những người nam người nữ thuộc nhiều thế hệ đã
sống theo điều họ muốn; chắc chắn là họ luôn làm những điều trái với ý muốn Đức
Chúa Trời. Vì thế mà tôi đã kế thừa sự bại hoại, tật bệnh và sự chết. Nhưng bẩm
sinh tôi không phải là người phục vụ ma quỉ, mà theo thời gian tôi đã trở thành
con người như vậy.
Khi
còn là một đứa trẻ, tôi đã bị trừng phạt nặng nề bằng lời nói cũng như bằng
những trận đòn. Bố mẹ tôi thường nói “Trẻ con cần phải bị trừng phạt cách khắc
nghiệt”. Và rồi họ nói thêm, dường như để cố gắng tự chứng minh họ là đúng “Tao
trừng phạt mầy chỉ vì tao thương mày”.
Các
thầy cô giáo trong trường cũng thường bảo tôi rằng “Thầy đã bảo mà, thế nào em
cũng làm điều đó”, “Thế nào rồi em cũng sẽ hiểu” và “Tôi sẽ làm cho em hiểu ra
ngay thôi”.
Hễ
khi nào tôi làm điều gì sai trái hoặc gây thiệt hại, lập tức tôi bị lên án bằng
một lời tiên báo khủng khiếp “Thật bố nào con nấy”. Và rồi họ còn tiếp tục thêm
vào những thành ngữ khác mà ai nấy thường dùng để nhấn mạnh việc tôi chẳng có
hy vọng gì để thay đổi. Họ gọi tôi là quạ, là lợn, là khỉ, là vô tích sự, lười
biếng, dễ ghét và nhiều danh hiệu khủng khiếp khác. Tất nhiên là mọi sự đều
nhằm mục đích sửa trị và dạy bảo tôi!
Tôi
phải nhơn danh Chúa Jesus mà tha thứ tất cả những điều đó để thôi sống trong
xiềng nô lệ của sự thù ghét, sợ hãi và những sự dạy dỗ sai trật của gia đình
mình.
Những
người cao tuổi, mà tôi rất kính trọng cũng đã dạy tôi những điều khác. Họ
thường bảo “Ở đâu có ý chí, ở đó có phương tiện” hoặc “Đức tin có thể dời núi
được” (tất nhiên họ không nói đến đức tin đặt nơi Chúa, mà là nơi con người).
Họ cũng bảo “Đừng bao giờ nhắc đến chữ chết” và “con còn trẻ, cả thế giới đều ở
trong tay con”. Họ luôn nhắc đi nhắc lại “Gia tài lớn nhất mà người cha có thể
cho con trai mình là sự giáo dục và nghề nghiệp để nó có thể thành công trong
đời”. Cùng với điều đó, họ nói “Nếu muốn đạt được bất cứ điều gì, con cần phải
học”. Nếu tôi trở thành một “tiến sĩ” thì cả gia đình sẽ thu gặt được những
phần thưởng. Họ tuyên bố rằng “Nếu con không học, con sẽ trở thành một kẻ nghèo
bị khinh khi”. Hoặc họ nói những câu như là “Con sẽ trở thành điều mình phải
trở thành, hoặc con sẽ chẳng là gì cả”. Họ nói “Khi ta sở hữu, ta có quyền”,
“Tiền không làm ta hạnh phúc, nhưng giúp ta hạnh phúc” “Khi no bụng, lòng sẽ
hạnh phúc”. “Điều quan trọng nhất trong đời nầy là phải khỏe mạnh”... và những
thành ngữ tương tự như thế.
Nếu
họ bắt gặp tôi đang đọc các sách báo thuộc linh hay thường xuyên đến nhà thờ
Thiên Chúa Giáo, họ sẽ cười nhạo tôi và bảo: “Đó là tất cả những gì chúng ta
cần; giờ thì nó sắp trở thành một linh mục!” Từ các linh mục, thì câu nói mà
tôi nhớ nhất là “Biết mình”, "Hãy bảo trọng!”,”Hãy tự giúp chính mình và
kiện toàn chính mình”. Có cả một gánh những thứ “phải” và “nên” đè bẹp tôi. Cái
gì cũng nhằm vào nỗ lực và sức mạnh của ý chí, hy sinh và chịu khổ, hối hận,
chịu đựng, phải khôn khéo và lịch thiệp...
Họ
cũng dạy tôi rằng một người phải tự khẳng định mình. Ở trung học người ta dạy
tôi rằng con người là một con vật có ý chí và rằng “Tôi biết suy nghĩ, vì vậy
tôi là tôi. Khi tôi hai mươi tuổi họ đã thành công khi làm cho tôi tin rằng con
người phải chịu trách nhiệm về số phận của mình.
Thế
gian theo kinh nghiệm đau thương của tôi là ích kỷ, thù hằn, lừa dối và giả
hình. Dầu vậy, họ vẫn bảo tôi rằng thế giới không giống như vậy, đó chỉ là cảm
nhận của tôi về thế giới, bởi vì “Kẻ cắp tưởng rằng ai cũng là kẻ cắp”.
Không
những họ dạy tôi các giáo lý sai trật, mà họ cũng bảo tôi phải dạy như họ đã
dạy, cứ tin rằng mình đang truyền đạt chân lý. Cuối cùng, tôi quyết định nghiên
cứu tâm lý học điều trị bệnh và tâm lý học xã hội, khoa cận tâm lý, Thiền, Phật
Giáo, chiêm tinh học và y học dân gian. Bằng cách nầy, tôi đã trở thành một
giáo sư giả, tức là một kẻ mù dắt kẻ mù."
Vào
tháng 10 năm 1984 tôi cùng với một nhóm các nhà tâm lý học và các sinh viên,
tham gia một buổi truyền giảng trong chiến dịch của Annacondia ở thành phố
Loman de Zamora Argentina, với một mục đích duy nhất là khảo sát. Tôi thật sự
không muốn đi, tôi đã quá mệt mỏi với những sự chữa lành giả dối, nhưng dầu vậy
các bạn tôi cũng đã rủ tôi cùng đi.
Trong
buổi truyền giảng, họ mời những người đau tiến lên phía trước để họ có thể cầu
nguyện cho. Vì tôi phải khổ sở với các chứng dị ứng di truyền không thể chữa
trị được, nên tôi đã đi lên trước để có thể chứng thực được các phép lạ nầy.
Thình lình tôi thấy mình đang kêu khóc xin Đức Chúa Trời cứu tôi và ban cho tôi
tình yêu mà tôi chưa bao giờ có. Sau đó tôi hiểu ra rằng trước kia mình đã là
một công cụ thích hợp trong tay Satan. Thật cảm tạ Chúa Cứu Thế Jesus, Ngài đã
không nhìn vào sự gian ác và số lượng lớn những cuộc đời mà tôi đã đẩy đến vực
thẳm, nhưng đã giải cứu tôi để bày tỏ tình yêu của Ngài!
BASILIO
Câu
chuyện nầy khiến chúng ta phải suy nghĩ về việc đã bao nhiêu lần chúng ta nói
những câu tương tự như thế. Tôi hình dung mỗi một nền văn hóa đều có những
thành ngữ của riêng họ. Nhưng chúng ta rất thường nghe thấy những từ ngữ đó,
đặc biệt là giữa những người yêu thương nhau, như là, vợ chồng, cha mẹ, con
cái, anh chị em trong nhà. Xin đừng cho phép những câu nói ấy tiếp tục xuất
hiện trong đời sống bạn. Hãy bỏ chúng khỏi số từ vựng của bạn. Hãy nhận biết
rằng một số thất bại chúng ta phải trải qua trong cuộc đời chính là hậu quả của
những lời đó. Đừng để lại hậu quả xấu trên đời sống những người thân yêu của
bạn vì cách nói ấy.
Về
mặt thuộc linh, những lời nầy có một tầm quan trọng lớn. Ma quỉ lợi dụng chúng
để làm cho người nghe những lời rủa sả tin điều đó là đúng. Sớm hay muộn, chúng
cũng sẽ làm thương tổn họ ở một mức độ mà chỉ có chức vụ của Đức Thánh Linh mới
có thể chữa lành và giúp người ấy tha thứ cho những kẻ đã lăng mạ.
Đức
Chúa Trời dạy chúng ta rằng cái lưỡi nắm giữ quyền sự sống và chết. Ai yêu mến
nó sẽ ăn bông trái của nó (Châm Ngôn 18:21). Lời rủa sả cột trói đời sống và
ngăn chận ơn phước. Hãy học tập chúc phước cho con cái, vợ hoặc chồng, cha mẹ
bạn và bạn sẽ để ý thấy một sự thay đổi lớn.
Sứ
đồ Phierơ dạy rằng “Vả, ai muốn yêu sự sống và thấy ngày tốt lành thì phải gìn
giữ miệng lưỡi mình. Đừng nói điều ác và lời gian dảo” (I Phi-e-rơ 3:10). Miệng
lưỡi chúng ta thường gây ra nhiều điều đau đớn; chỉ Chúa Cứu Thế mới có thể đem
sự chữa lành đến cho hoàn cảnh đó, nhưng chỉ khi nào chúng ta sẵn sàng nhìn
nhận việc làm sai trật của mình.
Muốn
có đời sống tốt lành, chúng ta cần kiềm giữ mình khỏi nói điều ác. Các thế lực
tà linh thường tham gia vào những loại rủa sả nầy. Satan không toàn tri, nó
không đọc được các tư tưởng của tôi, nhưng nó hiểu điều tôi công bố bằng môi
miệng. Đó là lý do vì sao phải xưng nhận các ơn phước và đừng rủa sả là điều
hết sức quan trọng. Bạn có nhớ cây vả khô đi khi bị rủa sả không (Xem Ma-thi-ơ
21:19).
Xưng
nhận là điều vô cùng quan trọng. Khi con người tiếp nhận Chúa Jesus làm Cứu
Chúa và Chủ đời sống họ, tôi luôn luôn bảo họ hãy lặp lại lớn tiếng lời cầu
nguyện của họ. Ma quỉ phải nghe họ tuyên bố lời xưng nhận đức tin của họ. Nhiều
lúc tôi thấy người ta đứng trước bục giảng, song khi gọi mời họ nói đôi lời để
dâng đời sống mình cho Chúa Jesus, họ không lặp lại lớn tiếng. Vì vậy tôi bảo
họ hãy nói lớn lên, ma quỉ phải nghe họ nói. Khi có người bảo: “Tôi cầu nguyện
trong tâm trí”, tôi bảo họ rằng ma quỉ không nghe họ đâu. Kinh Thánh chép rõ
ràng điều nầy trong Rôma 10:10 “Vì tin bởi trong lòng mà được sự công bình, còn
bởi miệng làm chứng mà được sự cứu rỗi”.
Nhiều
khi tôi thấy người ta phải chiến đấu để mà nói “Lạy Chúa, con xin dâng đời sống
của con đây” hoặc “Lạy Chúa, con xin tiếp nhận Ngài vào lòng”. Chính là vì
trong giờ phút đó, có một cuộc chiến thuộc linh đang diễn ra trong lòng họ.
Không có chỗ cho hai vương quốc trong tấm lòng chúng ta. Một nước phải ra đi,
và điều đó chỉ phụ thuộc vào ý chí và sự lựa chọn tự do của người đang thực
hiện quyết định hết sức quan trọng ấy.