VWS - How Great Is Our God

How Great Is Our God


God Will Make A Way

God Will Make A Way

God will make a way 
Where there seems to be no way 
He works in ways we cannot see 
He will make a way for me 
He will be my guide 
Hold me closely to His side 
With love and strength 
For each new day 
He will make a way 
He will make a way 

By a roadway in the wilderness 
He'll lead me 
And rivers in the desert will I see 
Heaven and earth will fade 
But His Word will still remain 
He will do something new today



Chúa Luôn Mở Lối

Chúa cùng đi với tôi
Trên đường đời tăm tối mịt mù.
Lạ thay ơn Chúa sâu rộng vô biên.
Ngài luôn luôn mở lối cho tôi.
Chúa là Đấng dắt chăn,
Giữ tôi gần mỗi bước bên Ngài.
Bằng tình yêu với năng lực tươi mới.
Ngài luôn luôn mở lối,
Ngài luôn luôn ở bên.

Chúa cùng đi với tôi
Trên dường đời tăm tối mịt mù.
Lạ thay ơn Chúa sâu rộng vô biên.
Ngài luôn luôn mở lối cho tôi.
Chúa là Đấng dắt chăn,
giữ tôi gần mỗi bước bên Ngài.
Bằng tình yêu với năng lực tươi mới.
Ngài luôn luôn mở lối,
Ngài luôn luôn ở bên.

Nơi chông gai khô khan
Ngài dẫn bước tôi luôn thái an.
Nơi hoang vu Chúa khiến suối reo vui tươi.
Mọi điều đời này sẽ qua,
Nhưng Lời Chúa mãi không thay dời.
Ngày hôm nay Ngài ban ơn đổi mới.

Chúa cùng đi với tôi
trên đường đời tăm tối mịt mù.
Lạ thay ơn Chúa sâu rộng vô biên.
Ngài luôn luôn mở lối cho tôi.
Chúa là Đấng dắt chăn,
giữ tôi gần mỗi bước bên Ngài.
Bằng tình yêu với năng lực tươi mới.
Ngài luôn luôn mở lối,
Ngài luôn luôn ở bên.

Don Moen Worship

I WILL SING




GOD FOR US





GOD WILL MAKE A WAY





GOD WITH US





THANK YOU LORD





THE MERCY SEAT





UNCHARTED TERRITORY






Cuộc Đời Lena Maria - Chương 15

CHƯƠNG 15. NGÀI ĐÃ THẤY TÔI TRƯỚC KHI TÔI SINH RA

Cảm ơn vì bạn đã có mặt trên đời nầy… nhưng tôi nghĩ rằng nếu bạn là một người tầm thường, thì hẳn bạn đang phải ngồi trên một chiếc xe đẩy trong viện từ thiện .
Niềm say mê cuộc sống mà bạn có thật đặc biệt! Được biết nhiều điều bạn có thể làm được cũng là điều thật diệu kỳ. Nhưng làm thế nào bạn có thể tự mình mặc quần lấy và làm sao bạn có thể cài tất cả các nút của bạn… tôi chắc rằng bạn phải có ai đó giúp bạn những việc này chứ .
Tôi nhận được nhiều lá thư, từ những người ở Nhật lẫn những người ở Thụy Điển nữa. Thường thì họ ngạc nhiên vì sao tôi luôn luôn có một cái nhìn tích cực về cuộc sống như vậy, và làm thế nào tôi đã thành công trong nhiều việc mặc dù có nhiều điều bất lợi cản trở tôi.
Đây là một câu hỏi khó, nhưng tôi nghĩ mình có thể thấy ít nhất ba lý do khác nhau. Trước hết, điều này thật đơn giản, phải chăng khi sinh ra chúng ta đều khác nhau. Tôi được hạnh phúc và tò mò về cuộc sống ngay từ lúc khởi đầu, nhân cách của tôi là điều đã khiến tôi có thể nhìn vào những tiềm năng thay vì những khó khăn. Tôi không làm cho mọi sự trở nên càng khó khăn hơn chính bản chất của chúng, tôi suy nghĩ cách tích cực về chính mình. Tôi dám tự giúp mình thực hiện những điều tôi thấy. Tôi dám thắc mắc, dám hỏi.
Tôi bướng bỉnh. Hay có thể nói là cương quyết. Khuyết tật của tôi đã giúp thêm cho tính cứng đầu này theo một hướng có ích. Tôi nghĩ rằng nếu mình có một thân thể bình thường, sự cứng đầu và suy nghĩ tích cực của tôi sẽ khiến tôi tự cao tự kỷ và kết quả sẽ tự thúc giục tôi tiến bước trong cuộc sống. Thay vào đó, tình trạng khuyết tật của tôi đã giúp tôi không xem mọi việc là tất nhiên hoặc coi thường để rồi bỏ uổng phí những điều mình có.
Lý do thứ nhì là cha mẹ tôi. Tinh thần yên nghỉ của họ về tôi và tình trạng khuyết tật của tôi là điều quan trọng vô cùng. Họ đã đem lại cho tôi một nền tảng an toàn vô cùng. Họ đã giúp tôi thành công, và cũng giúp tôi chấp nhận thất bại nữa. Họ là chỗ dựa cho tôi lớn lên, nhưng họ không bao giờ khiến cho khuyết tật của tôi trở thành quan trọng hơn chính con người của tôi. Dĩ nhiên họ thường phải nói cho người khác biết về sự thiếu khả năng di chuyển của tôi và những điều khác nữa, nhưng họ không để cho những cuộc đối thoại như vậy diễn ra khi có mặt tôi.
Tôi nghĩ điều thứ ba là điều quan trọng nhất nói lên lý do tại sao tôi luôn luôn có một cái nhìn về đời sống vui vẻ hạnh phúc như vậy, không nghi ngờ gì cả điều đó chính là nhờ nơi Chúa. Đức tin đã trở thành một phần tự nhiên của đời sống tôi tự bao giờ tôi không thể nhớ, và là một Cơđốc nhân, tôi biết rằng tôi có giá trị cho dù tôi là ai và bề ngoài của tôi thế nào.
Tôi thường nghĩ về một vài câu Thánh Kinh trong Thi Thiên 139:1-24:
“Vì chính Chúa nắn nên tâm thần tôi, Ngài dệt thành tôi trong lòng mẹ tôi .
Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng. Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm. Khi tôi được dựng nên trong nơi kín, chịu nắn nên cách xảo tại nơi thấp của đất, thì các xương cốt tôi không giấu được Chúa. Mắt Chúa đã thấy thể chất vô hình của tôi; số các ngày định cho tôi, đã biên vào sổ của Chúa trước khi chưa có một ngày trong các ngày ấy”
Đức Chúa Trời có ở cùng tôi ở giai đoạn phôi thai không? Ngài có nghĩ về tôi trước khi tôi được sinh ra không? Vâng, tôi tin điều này có và tôi cũng tin rằng đối với Chúa không phải ngoại diện và hình dáng của tôi là phần quan trọng nhất. Phần quan trọng nhất trên hết mọi sự là mối liên hệ của tôi với Ngài.
Và tôi biết rằng Ngài yêu tôi.
Dĩ nhiên tôi đã tự hỏi rất nhiều lần tại sao lại phải có quá nhiều đau khổ và nan đề, bệnh hoạn và tàn tật, đã nhiều lần tôi vẫn thường suy nghĩ làm thế nào Đức Chúa Trời có thể cho phép những điều như vậy xảy ra. Không phải tôi đã có những giải pháp dễ dàng nào, nhưng có lẽ tôi được như vậy bởi vì tôi đoan chắc rằng những điều làm tổn thương chúng ta sẽ hình thành nhân cách của chúng ta, có lẽ bóng tối tăm phải tồn tại để có thể tăng cường sự tốt đẹp cho ánh sáng.
Không có con người nào trải qua cuộc sống mà không có những nan đề, nhưng tôi tin rằng sự phong phú của một người trên hết là nhờ họ phải trải qua những kinh nghiệm khó khăn. Tôi để ý khi gặp một người mà mình khâm phục. Đó là do cách họ thích ứng với những khó khăn trong đời sống đã làm cho họ đáng khâm phục như vậy.
Một người mà tôi rất ngưỡng mộ đó là Aiako Miura*, một tác giả người Nhật sống ở tại Hokkaido, một đảo thuộc về miền bắc Nhật Bản. Xuyên suốt đời sống của bà, bà đã phải chịu khổ vì nhiều bệnh tật mà phải nói là hầu như quá nhiều đối với bà. Nhưng trong một cách nào đó hoặc là theo một cái nhìn khác, bà đã luôn luôn có thể vượt qua được những khó khăn và chính những khó khăn này đã đem lại sức mạnh cho bà. Tại Nhật Bản, ngày nay bà là một tác giả Cơđốc vĩ đại, và các sách của bà có ý nghĩa thật lớn lao đối với mọi người. Bà đã viết hơn bảy mươi cuốn sách trong suốt đời mình, hơn ba mươi triệu ấn bản đã được bán, và nhiều sách của bà đã được phiên dịch qua những ngôn ngữ khác.
Bà cứ tiếp tục viết, mặc dù hiện nay đã lớn tuổi và phải chịu đựng bệnh parkinson và cả ung thư nữa. Tôi gặp hai vợ chồng bà trong một chuyến viếng thăm Nhật Bản và lần gặp gỡ này vừa thật hứng thú và có nhiều sự dạy dỗ. Sự khích lệ của họ, niềm vui và sự nồng ấm của họ đã tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ cho tôi.
Khi so sánh với những con người như thế, tôi không nghĩ rằng mình đã trải qua một thời gian khó khăn đặc biệt nào trong cuộc sống. Chúa đã ban cho tôi sức mạnh để thích nghi với những gì gọi là đau khổ và chịu đựng mà tôi đã phải từng trải, và tôi chỉ vui mừng nếu đời sống của tôi - với tất cả những sự thăng trầm của nó - có thể nói lên một điều gì đó cho người khác.
Dĩ nhiên đôi khi tôi cũng mong rằng Đức Chúa Trời có thể chữa lành cho tôi. Khi còn trẻ tôi không bao giờ nghĩ điều này, nhưng ngày nay thỉnh thoảng tôi có ao ước đó. Tôi cảm thấy rằng thân thể của tôi mỗi ngày càng có vẻ cứng hơn, và hông của tôi dễ dàng bị đau khi phải chất lên nó quá nhiều gánh nặng. Sẽ thực tế hơn nếu tôi có những cánh tay, nó sẽ làm mọi sự dễ dàng hơn và điều đó phải là phép lạ.
Nhưng tôi cho rằng được đặc ân Chúa hiện diện với mình đã là một phép lạ rồi dù rằng tôi mang hình trạng như hiện nay. Tôi đồng ý với Joni Eareckson Tada, một phụ nữ Mỹ bị liệt vì tai nạn khi phóng xuống hồ bơi, là người tôi được nghe về sự khuyết tật và đức tin của bà qua một câu nói như sau: “Nếu Đức Chúa Trời phải hành động và chữa lành cho tôi thì tôi sẽ rất vui mừng. Nhưng để có thể sống hạnh phúc vui mừng ngay ở giữa hoàn cảnh khó khăn, thì điều này lại càng bày tỏ Đức Chúa Trời là một Đấng vĩ đại hơn nữa.”
Có lẽ một vài người nghĩ rằng đức tin của tôi thật ngây ngô. Nhưng tôi đã thấy nhiều lần Đức Chúa Trời ở với tôi ngay trong những hoàn cảnh lớn lao lẫn trong những việc nhỏ nhặt. Điều này đem lại cho tôi niềm vui và năng lực. Đó là lý do vì sao tôi có thể tiếp tục nhìn về tương lai một cách tích cực, cho dù tôi không biết nhiều về những gì sắp xảy đến. Tôi vui mừng vì được sống và được làm một ca sĩ. Tôi có một người chồng, có gia đình và bạn hữu là những người có thể giúp đỡ tôi khi cuộc sống trở nên khó khăn. Nhưng trên hết mọi sự tôi có Chúa. Ngài yêu tôi và tôi biết rằng không gì có thể cướp đi khỏi tôi tình yêu này.
Khi tham dự thế vận hội dành cho người khuyết tật tại Seoul Hàn Quốc, tôi đã viết một bài ca nói lên cảm xúc khi phải đi một mình. Tôi cũng muốn chia sẻ lời bài ca đó với bạn:

Tận trong lòng tôi, có thể nghe Chúa đang thì thầm gọi tên.
Như làn gió lặng lẽ thì thầm
Ngài đang ở đây và tôi đang yên nghỉ trong cánh tay Ngài,
Chúa đang nói với tôi rằng Ngài yêu tôi,
Và Ngài muốn tôi là bạn thân nhất của Ngài.
Chỉ cần suy nghĩ rằng
Bất cứ nơi nào tôi đi, Ngài luôn luôn ở đó,
Ngài quan tâm đến những gì sâu thẳm nhất trong tôi,
luôn dành thì giờ hỏi thăm tôi.
Ngài biết hết mọi sự mà tôi không thể hiểu được
Chúa biết rõ mọi tội lỗi tôi, dầu vậy Ngài vẫn yêu tôi,
Ngài yêu tôi, Ngài vẫn yêu tôi.

                                       * Aiako Miura qua đời tháng Mười 1999.

Cuộc Đời Lena Maria - Chương 14


CHƯƠNG 14. CHÚNG TÔI CHỈ MỚI LÀ BẠN

Một người khuyết tật như tôi có thể có một mối liên hệ thân mật được không? Nếu một người phải lập gia đình, người đó có bị buộc không được kết hôn với một người nào khuyết tật như trường hợp khuyết tật của tôi không? Ngoài ra có người nam nào quan tâm không?
Dường như có nhiều người lưu tâm về điều này và hỏi tôi có muốn kết hôn và bắt đầu một gia đình không? Cũng như trong nhiều vấn đề khác, tôi không suy nghĩ nhiều. Tôi sẵn lòng phó thác điều đó cho Đức Chúa Trời, bởi vì Ngài vẫn đang xếp đặt nhiều điều khác trong cuộc đời tôi.
Lẽ tự nhiên đã có những lúc tôi mơ ước nhiều về một chàng trai. Cô gái nào lại không có điều đó trong lứa tuổi mười chín đôi mươi? Nhiều lần tôi đã cảm mến một người và nghĩ rằng bây giờ chắc hẳn phải là người của đời tôi, nhưng mọi sự đã không tiếp diễn như vậy.
Và rồi tôi gặp Bjưrn.
Chúng tôi quen biết nhau qua ban hợp ca Phúc Âm gọi là Tiếng Chúa tại Nhạc Viện. Tôi là một trong những người cùng thành lập ban hợp ca, và khi chúng tôi có buổi hòa nhạc đầu tiên thì nhiều người muốn gia nhập với chúng tôi. Bjưrn Klingvall đang học để ra giáo sư âm nhạc và sử dụng nhạc cụ chính là đàn Viola, anh muốn gia nhập để hát giọng nam cao với chúng tôi. Ngay sau đó chúng tôi khám phá ra rằng chúng tôi có rất nhiều điểm chung.
Thỉnh thoảng chúng tôi bắt đầu gặp gỡ, ăn trưa với nhau và nói chuyện về bất cứ điều gì mật thiết liên quan với tấm lòng chúng tôi lúc ấy. Bjưrn trở thành một loại bạn hữu mà tôi có thể nói đủ mọi thứ chuyện. Một người anh em thật! Tôi nghĩ rằng anh cảm thấy rằng anh cũng có thể nói về hàng loạt nhiều vấn đề với tôi, bởi vì khi anh có những nan đề về bạn gái thì anh đến nói với tôi.
Điều này có lẽ giống như một khuôn mẫu nào đó, nhưng chúng tôi vẫn chỉ là bạn, và đối với tôi điều này hết sức tự nhiên. Có quá nhiều điều cho thấy rằng chúng tôi không thể trở thành một cặp tình nhân. Tôi hiểu rằng đối với Bjưrn các thiếu nữ phải có ngoại diện như thế nào là điều vô cùng quan trọng. Còn đối với tôi thì điều quan trọng ở chỗ: một người mà cuối cùng tôi sẽ chia sẻ cả cuộc đời của mình cũng nhất thiết phải chia sẻ đức tin của tôi nữa. Bên cạnh đó giữa chúng tôi chưa hề có tình yêu nam nữ, ít nhất là đối với nhau.
Mặc dầu Bjưrn không xem anh ta là một người Cơ đốc, chúng tôi vẫn nói chuyện rất nhiều về Thượng Đế. Điều này thật tự nhiên bởi vì anh cũng là thành viên của ban hợp ca, nhưng sau một thời gian thì anh đã từ bỏ. Anh nghĩ rằng thật khó chịu khi mọi người đều nói chuyện về đức tin của họ và Chúa Giêxu, và thật căng thẳng đối với anh khi hát về những điều mà anh không rõ mình có tin tưởng không.
Tôi cảm thấy không vui về phúc lợi của anh cho nên tôi cầu nguyện cho anh, bởi vì tôi biết rằng anh đang trải qua một thời kỳ cố chấp, nhưng chúng tôi không còn gặp nhau thường xuyên nữa. Một khoảng thời gian giữa những sự bận rộn khác, tôi có một chuyến đi đến Hoa Kỳ, chúng tôi mất liên lạc với nhau, nhưng tôi vẫn tiếp tục cầu nguyện cho anh.
Khi trở lại Thụy Điển, tôi đi đến ban hợp ca Lời Chúa để thực tập, và tại đó thật ngạc nhiên vô cùng, tôi gặp được Bjưrn. Anh thuật lại cho tôi biết rằng một ngày kia anh thức dậy và suy nghĩ rằng đằng sau tất cả mọi sự phải có một Đức Chúa Trời, và mọi điều về Chúa Giêxu có lẽ đúng. Bây giờ anh cảm thấy rằng anh có thể hát những bài Thánh ca Phúc Âm và thật sự hát một cách có ý nghĩa. Đó là lý do anh bắt đầu hát trở lại trong ban hợp ca.
Trải qua mùa xuân đó, chúng tôi tiếp tục gặp nhau nhiều hơn, thường xuyên hơn. chúng tôi thử xem cùng chạy trên chiếc mô tô có cảm giác như thế nào, chúng tôi cùng nghe nhạc với nhau, nói chuyện, chúng tôi đến các buổi hòa nhạc và cùng dự rất nhiều điều khác. Mùa hạ sang, chúng tôi lại cùng đi nghĩ hè với nhau trên một chiếc xe gắn máy.
Chúng tôi giống như những người bạn tốt của nhau, nhưng chúng tôi vẫn không có một suy nghĩ nào về việc “sống chung”. Nếu cưới Bjưrn điều đó tựa như có một mối liên hệ với một người anh ruột của mình vậy! Trong khi người khác hỏi chúng tôi, có phải chúng tôi là một cặp tình nhân không? Chúng tôi chỉ cười, tôi đã có một người bạn tuyệt vời và điều này cũng đã đủ.
Tuy nhiên nhiều tháng trôi qua và dần dần có một câu hỏi bắt đầu khuấy động ở trong tôi? Cuộc sống chung cùng với Bjưrn sẽ như thế nào?
“Không đâu, nó sẽ không tốt đâu” tôi tự trả lời cho mình.
Câu hỏi đó cứ tiếp tục đến với tâm trí tôi, nhưng tôi biết câu trả lời luôn luôn thật là cứng nhắc mỗi lần như vậy. Dĩ nhiên điều tuyệt diệu là anh đã là một tín hữu, nhưng anh ta không phải là mẫu người mà tôi đã mơ được kết hôn. Ngoài ra tôi có thể thấy nhiều điều khác, có nghĩa là một mối liên hệ giữa chúng tôi không thể thực hiện được. Ví dụ như bất cứ lúc nào anh ấy cũng phải sẵn sàng để giúp đỡ tôi mà không cần tôi phải yêu cầu, là điều trên một phương diện không thể có được.
Và rồi phép lạ đã diễn ra. Bjưrn bắt đầu thay đổi.
Điều đó khởi đầu vào một buổi chiều nọ khi tôi trở về nhà sau một chuyến đi. Đó là lúc anh đãi với tôi bằng cách đưa tôi đi ăn chiều. Anh chưa từng làm điều này bao giờ. Và buổi sáng hôm sau anh đã đến căn hộ của tôi lo bữa ăn sáng, rồi anh dọn rửa...
Điều này tựa như mọi lần khác, khi tôi thưa với Chúa về những điều không thể diễn ra được, Bjưrn đã bắt đầu thay đổi trong lãnh vực này. Điều này thật đáng chú ý. Đồng thời tôi bắt đầu suy nghĩ một cách nghiêm trang, tôi có thể yêu Bjưrn trọn đời không? Có thể nhận Bjưrn làm chồng suốt đời không? Thật ra, đây là điều người ta không bao giờ có thể thật sự biết được, có phải vậy không? Nhưng sau một thời gian, tôi biết rằng nếu khi nào Bjưrn cầu hôn tôi, câu trả lời của tôi sẽ là đồng ý.
Tôi chưa từng nghĩ là sự khuyết tật của tôi là một điều gì cản trở trong bất cứ phương diện nào, ngoại trừ khi nó phải đối diện với vấn đề này. Tôi cảm thấy mình không thể bước bước đầu tiên nào hết khi nói về khả năng chung sống với nhau trong tương lai. Tôi biết rằng lập gia đình với một người khuyết tật thực sự là một thách thức, và hơn hết, công việc làm đặc biệt của tôi đã hoàn toàn không khiến cho sự việc dễ chịu hơn. Trong mọi sự đó, ít nhất tôi muốn Bjưrn phải cảm thấy dễ chịu. Tôi muốn sự chọn lựa là của anh, nếu anh phải chọn tôi, thì điều đó phải đến tự nơi anh mà thôi.
Nhưng bây giờ tôi thật sự đã yêu anh ấy. Tôi phải đi đến Nhật trong một chuyến đi khác khi Bjưrn nêu ra vấn đề mà tôi muốn đề cập hơn hết. Ồ vâng, anh cũng đã suy nghĩ về chúng tôi và mối liên hệ của chúng tôi, anh nói với tôi và chúng tôi cùng nhau quyết định suy nghĩ toàn bộ vấn đề kỹ lưỡng hơn trong khi chúng tôi ở mỗi người mỗi nơi - anh ấy ở Thụy Điển và tôi ở Nhật. Chúng tôi quyết định rằng nếu cả hai cảm thấy muốn tiếp tục mối liên hệ thì chúng tôi sẽ phải hứa hôn vào đúng thời điểm lễ Giáng Sinh.
Về phần tôi, tôi cảm thấy đây là một kết luận cuối cùng. Tôi mong muốn một sự đồng ý trọn tấm lòng từ Bjưrn nếu anh phải chọn tôi. Chuyến đi ba tuần tại Nhật dường như dài vô tận. Tôi đã biết rõ điều tôi muốn, cho nên lòng đầy cảm xúc, tôi bị chao đảo vô cùng giữa hy vọng và tuyệt vọng. Anders, nhạc sĩ dương cầm tội nghiệp của tôi đã dành để thì giờ góp ý kiến khải đạo trước cho tôi trong khoảng thời gian giữa các buổi hòa nhạc.
Đối với Bjưrn điều đó cũng không phải dễ dàng. Anh thực sự đã là bạn của tôi nhưng anh có thể nghĩ về tôi như là người phụ nữ hoặc người vợ trong đời anh không? Lại nữa, anh có sẵn sàng sống với sự khuyết tật của tôi không? Cuối cùng mấy tuần ở Nhật cũng phải trôi qua. Chỉ còn một tuần nữa trước lễ Giáng Sinh và tôi đáp phi cơ về phi trường Arlanda đang khi Bjưrn đứng chờ đợi ở tại đó.
Tôi đã nhận được một cái ôm chầm mừng rỡ, nhưng tôi thật nôn nóng trước khi được nghe quyết định mà anh đã chọn lựa. Anh có yêu tôi hay không? Điều này còn tệ hại hơn khi bạn bứt những cánh hoa của một đóa hoa cúc!
Tôi hỏi anh về điều đó trong xe khi chúng tôi rời phi trường. Vâng, anh cũng muốn thế! Anh đã quyết định chia sẻ trọn đời với tôi và đối với cả hai chúng tôi, điều này dường như cũng là một điều gì đó mà Chúa ưng thuận.
Hai ngày trước lễ Giáng Sinh chúng tôi đã hứa hôn tại một khách sạn nhỏ tuyệt vời bên ngoài Vadstena. Có lẽ bạn nghĩ rằng điều này thật không thể tưởng tượng được, nhưng tôi đã nhận nụ hôn đầu tiên của mình đồng thời khi chúng tôi trao đổi nhẫn. Trọn buổi chiều tối thật là tuyệt vời, và trên đường đi tới khách sạn đó chúng tôi đã trải qua một buổi hoàng hôn lạ lùng. Điều đó dường như là hình ảnh Đức Chúa Trời đang mỉm cười về chúng tôi.
Lễ đính hôn của chúng tôi không có thời gian thử thách. Chúng tôi đã có quyết định của mình. Vì vậy mấy tháng mùa xuân sau đó trôi qua rất nhanh bởi vì chúng tôi đã phải chuẩn bị cho lễ cưới và mọi sự sau lễ cưới của mình.
Bởi vì cả hai chúng tôi đều quen biết rất nhiều người nhưng không có nhiều bạn thân, chúng tôi do dự một ít về việc có nên tổ chức một lễ cưới lớn hay nhỏ. Chúng tôi chọn tổ chức một lễ cưới lớn, nhưng đồng thời cả hai chọn từ chối hầu hết những phương tiện truyền thông đại chúng đang chờ đợi để xem lễ cưới của chúng tôi. Mặc dù tôi là một người nổi tiếng, chúng tôi không muốn ngày cưới của chúng tôi chủ yếu lại là một cuốn phim truyền hình.
Và như thế ngày 1 tháng 7 năm 1995, chúng tôi kết hôn tại nhà thờ Gustav Wasa ở Stockholm với hơn 800 khách mời hiện diện làm chứng. Khi còn trẻ, tôi mơ lễ cưới của tôi cũng sẽ là một buổi hòa nhạc - và điều này đã thực sự diễn ra. Chúng tôi được biết ban nhạc Lời Chúa sẽ hát bài Thánh ca Messiah của Handel như một lời chào kết thúc nhưng thêm vào đó Marina Johansson, là bạn thân của chúng tôi cũng là người tổ chức lễ cưới đã sắp đặt nhiều phần âm nhạc bất ngờ trong một buổi hòa nhạc kéo dài khoảng nửa tiếng.
Ngày sau đó, chúng tôi bắt đầu tuần trăng mật của mình đi bằng xe mô tô xuyên qua Châu Âu. Khi về lại nhà thì chúng tôi đã để lại đằng sau 7.000 km.
Tôi đã có một người chồng rất tốt, một người đã từng là bạn rất thân của tôi từ bấy lâu nay. Anh là một người tốt nhất mà tôi được biết, anh có một tấm lòng ấm cúng và tuyệt diệu, tôi thật hạnh phúc từ khi ấy, và vẫn còn hạnh phúc, hãnh diện và cảm tạ vì đã có Bjưrn giữa vòng nhiều người khác.
Điều này không có nghĩa là mọi sự từ đó trở đi được toàn là hạnh phúc dễ chịu như trong chuyện thần tiên. Một số ảo ảnh đã hoàn toàn biến mất. Ví dụ như chúng tôi nghĩ rằng mình biết lẫn nhau rất đầy đủ trước khi chúng tôi kết hôn. Nói một cách khác, chúng tôi thật sự là bạn rất thân, nhưng tôi khám phá rằng tôi vẫn còn mang theo mình tận đáy lòng những điều mà tôi chưa từng chia sẻ với ai.
Lẽ tự nhiên, chúng tôi đã phải trải qua những điều tương tự như hầu hết những cặp mới cưới, nhưng sống với một người khuyết tật đôi khi còn khó khăn hơn sau khi một người đã kết hôn, nó có thể liên quan đến cả những điều nhỏ nhặt lẫn những điều lớn lao: từ việc hiểu tôi cần được giúp đỡ nhiều hoặc không cần thế nào, nhằm giúp cho hôn nhân được diễn ra một cách tốt nhất, cho đến việc hiểu cách một người có thể bày tỏ sự êm dịu tế nhị đối với người khác ra sao. Ngồi bên nhau “chân trong tay” là một ví dụ của điều có vẻ tự nhiên đối với tôi, nhưng không thấy tự nhiên đối với Bjưrn chút nào.
May mắn thay, chúng tôi luôn luôn có thể tìm thấy một giải pháp bằng cách nói chuyện với nhau. Chúng tôi không bao giờ tiếp tục che giấu những nan đề của mình, và chúng tôi đã học để chạy đến với Chúa càng thường xuyên hơn trước nữa. 

Cuộc Đời Lena Maria - Chương 13


CHƯƠNG 13. SAYONARA - NƯỚC NHẬT TRONG LÒNG TÔI

Nước Nhật sẽ luôn luôn chiếm một vị trí lớn lao trong lòng tôi.
Khi tôi đến thăm Nhật Bản lần đầu tiên sau khi hai cuốn phim của tôi được trình chiếu, và sau khi tôi được phỏng vấn trên truyền hình, tôi đã không thể tưởng tượng được nước Nhật tác động trên tôi nhiều đến mức nào. Tôi chỉ muốn được phỏng vấn và thích hát trên một chương trình truyền hình trực tiếp.
Trong cả hai bản tường thuật trên truyền hình trước đây, vì những lý do rất dễ hiểu, mọi điều tôi nói về đức tin của tôi và về Thượng Đế đã bị xóa trước khi cho truyền hình. Xét thấy rằng đã có quá nhiều tôn giáo tại Nhật Bản, cho nên nói một cách tổng quát trong các chương trình của họ, chính sách truyền hình phải tuân thủ nguyên tắc không bao giờ trình chiếu những triết lý của người ta về đời sống. Nhưng bây giờ khi người giới thiệu của chương trình Trạm Tin Tức đã hỏi tôi tại sao tôi có vẻ quá hạnh phúc và có sức mạnh để làm nhiều việc như vậy, tôi không thể nào không nói với ông ta về đức tin của tôi.
Bây giờ mọi người phải biết rằng tôi là một Cơđốc nhân, và ngay lập tức những đại diện của nhiều hội thánh bắt đầu tiếp xúc với tôi và yêu cầu tôi đến hát cho họ. Một người trong số đó là Alf Idland, một tu sĩ Na Uy làm việc tại Kobe đã sống ở Nhật gần hai mươi năm. Ông đã sắp xếp một chuyến đi khoảng hai tuần lễ cho Anders và tôi vào tháng năm 1992. Ông đã trở thành người quản lý của tôi.
Các hội thánh ở nhiều nơi đều ủng hộ cho các buổi hòa nhạc, nhưng không phải mọi người đều tin tưởng như Alf về sự ham thích ưa chuộng dành cho ca sĩ Thụy Điển này. Bởi vì ngoài mọi chuyện nêu trên tôi vẫn còn khá xa lạ đối với họ. Trong thành phố Mishima, khi một nhà truyền giáo Thụy Điển tên là Bo Dellming thuê được một hội trường hòa nhạc lớn nhất cho buổi hòa nhạc của chúng tôi, là nơi có thể chứa được khoảng một ngàn hai trăm người thì hội thánh của ông đã không thể hỗ trợ cho công việc liều lĩnh này, cho nên ông đã phải mạo hiểm tự mình thuê hội trường đó. Tuy nhiên ông đã không phải lo lắng lâu, bởi vì chúng tôi đã có quá nhiều người đến dự trong buổi chiều hôm ấy, đến nỗi chúng tôi phải trình diễn một xuất phụ trội ngay trong cùng buổi chiều đó.
Thật là kỳ diệu! Tất cả các buổi hòa nhạc đều được bán vé, và trong nhiều trường hợp quá nhiều khách đến nỗi chỉ còn chỗ đứng. Nhiều tiếng đồng hồ trước khi diễn, khách dự xếp hàng dài bên ngoài sảnh đường của buổi hòa nhạc. Những người mà chúng tôi chưa từng biết đã đến gặp để xin chụp hình. Anders và tôi hoàn toàn ngạc nhiên sửng sốt, nhưng dần dà tôi bắt đầu hiểu tác động của những chương trình truyền hình là thế nào.
Người Nhật thích lối hát của tôi và cách diễn xuất đôi khi có âm điệu hơi buồn mà tôi đã trình bày, nhưng điều này không phải là lý do duy nhất khiến họ đến các buổi hòa nhạc.
Qua những chương trình truyền hình, nhiều người Nhật đã được cống hiến hình ảnh một con người khuyết tật thật khác biệt với hình ảnh mà trên một phương diện khác họ đã quen thuộc. Đoạn trích sau đây là tiêu biểu cho điều này. Nó được trích từ tờ nhật báo Yomiuri tại Nhật khi một phóng viên truyền hình bình luận về một trong những phim nói đến tôi.
Ngày 19 tháng 6 trong chương trình Trạm Tin Tức buổi chiều, chúng tôi đã xem một phim video về Lena Maria người Thụy Điển là người đang học ở tại nhạc viện để trở thành một ca sĩ... phim video này thật sự đã nói lên rằng giá trị của một con người chính là ở trong linh hồn của người đó.
Và rồi phóng viên đó cho thấy một vài ví dụ khác tương tự:
Trong một cửa hiệu tại Hawaii có một cô gái được người ta hỏi đường đi. Cô gái này bị tàn tật vì thuốc Thalidomide, nhưng cô đã chỉ đường bằng những bàn tay nhỏ của mình. Trong một cửa hiệu khác, có một thanh niên bị câm, nhưng một dấu hiệu đã được chuẩn bị trước ở đó yêu cầu người ta bỏ tiền vào quầy thu ngân.
Nếu chúng ta cư xử theo cách thông thường và giúp đỡ những người này, thì họ cũng sẽ có khả năng làm việc trong điều kiện họ có thể làm được. Chúng ta biết rằng ngay cả những người không bị tàn tật cũng có một số điều làm được tốt hơn những điều khác. Tôi đã khám phá ra rằng những người nước ngoài nhận ra những điều này và cảm thấy thật tuyệt diệu, trong khi đó tôi để ý thấy chúng ta là người Nhật không có nhiều sự đồng cảm như thế.
Thật vậy, tôi nghĩ rằng có lẽ họ cũng có sự cảm thông, nhưng ở tại Nhật người ta cho rằng có một đứa con khuyết tật là một sự xấu hổ lớn. Sự xấu hổ nầy lớn đến nỗi cha mẹ phải giấu đứa con khuyết tật mình hoặc là bỏ nó đi, và là anh em, hoặc chị em của một người khuyết tật cũng có thể gặp khó khăn khi họ muốn lập gia đình. Có ít người khuyết tật được đi đến trường. Hầu hết sống trong những viện từ thiện và bận rộn trong việc nấu nướng, may vá, hoặc sản xuất nhiều thứ khác để có thể bán. Đi vào đại học và sống một cuộc sống tự lập giống như tôi, một người khuyết tật, là một điều gì đó thật vĩ đại trong cái nhìn của người Nhật.
Người Nhật được trưởng dưỡng để thành công. Điều này là sự thật kể từ khi họ còn nhỏ, và phải học cách làm sao đối phó được với hoàn cảnh tranh đua tại trường học, cho đến khi họ lớn khôn và phải thành công trong công việc. Điều này cũng đúng với nước Nhật trên bình diện của một quốc gia. Người ta tỏ ra có hiệu quả lạ thường trong việc theo đuổi bí quyết thành công. Họ có thể du lịch quanh thế giới để có thể ghi nhận được những mánh khóe và những ý tưởng về việc làm thế nào trở nên hữu hiệu và thành công hơn. Họ thường thành công trong những điều họ theo đuổi, và nhiều sản phẩm của người Nhật đã đạt được đỉnh cao trong thị trường quốc tế.
Điều này có lẽ ẩn tàng một lời giải thích nào đó có liên quan đến lý do người Nhật đối với tôi rất quyến rũ - và vẫn còn tiếp tục quyến rũ, bởi vì trong ánh mắt của họ tôi là người thành công. Tôi đang sống một cuộc sống hầu như bất khả thi đối với một người khuyết tật nặng nề. Người Nhật muốn biết điều gì tiềm ẩn đằng sau sự thành công của tôi. Những câu hỏi này cứ được lập đi lập lại luôn luôn mỗi khi tôi được những nhà báo phỏng vấn hoặc khi tôi gặp một người bình thường trên đường phố.
Không phải chỉ nhờ chuyến đi du lịch mà chúng tôi biết được sự hâm mộ này thật lớn lao. Một công ty ghi âm của người Nhật cũng bày tỏ sự hâm mộ của họ ngay từ đầu. Họ bảo đảm rằng đĩa CD mà Anders và tôi đã ghi âm bằng Anh Ngữ đã được in sang với bao bì bên ngoài bằng tiếng Nhật, và chẳng bao lâu công ty này muốn chúng tôi thực hiện ghi âm một phiên bản mới.
Khi thực hiện đĩa CD đầu tiên, Anders và tôi có một ngân quỹ thật nhỏ bé, nhưng lần thực hiện thứ hai này thực sự trở thành một sản phẩm lớn lao. Vào khoảng 60; nhạc sĩ dự phần với đàn violon, các nhạc cụ bằng hơi, các nhạc cụ gõ, guitar, bass, đàn thụ cầm và thật nhiều loại nhạc cụ và âm hưởng khác, Anders và tôi cũng đến tận Hollywood và ghi âm một vài bài hát cùng với nhạc sĩ Tây Ban Cầm Larry Carlton, và nhạc sĩ dùng dụng cụ gõ tên là Alex Acuna. Tôi cũng sáng tác nhiều bài hát hoặc cùng sáng tác với Anders, bởi vì sản phẩm âm nhạc này có tựa đề là Đời Sống Tôi.
Và rồi Đời Sống Tôi trở thành một cuốn sách. Nó được viết bởi một tác giả người Nhật sống tại Thụy Điển để phỏng vấn tôi trong vòng một tuần qua một phóng viên. Nhưng như thế cũng chưa đủ, hai cuốn sách khác cũng đã được viết. Một viết về cha mẹ tôi và quan điểm của họ đối với người khuyết tật, và cũng có một sách của trường học dành cho các trẻ em bậc tiểu học. Tại Nhật Bản, trẻ con được giao cho một cuốn sách như bài thực tập để chúng đọc trong những ngày nghỉ mùa hè. Đó là cuốn sách mà chúng phải viết luận văn, và sách của tôi được chọn giữa vòng nhiều quận có trường học ở Nhật với mục tiêu này. Thêm vào đó, một cuốn sách nhỏ bỏ túi đã được xuất bản bằng tiếng Anh và được dùng trong giờ dạy tiếng Anh ở các trường học.
Thỉnh thoảng tôi lôi ra được tất cả những cuốn sách này với những tranh bìa đủ màu về tôi và gia đình tôi, nhưng được viết với những tính cách mà tôi không hiểu một chút nào cả, và vì trang trước của họ được đặt ở nơi mặt lưng cho nên thường rất đáng chú ý.
Trong thời gian viết sách tôi đã thực hiện sáu chuyến du lịch khác nhau tại Nhật Bản. Tôi đã thực hiện cả những chuyến đi dài ngày và ngắn ngày. Thỉnh thoảng cùng đi với Anders, trong những trường hợp khác đi chung với ba người, hoặc với một dàn nhạc giao hưởng. Thường có nhiều cuộc sắp xếp vĩ đại với nhiều người tham dự. Trong một chuyến du lịch năm 1995, khi tôi cùng hát với bộ ba nhạc Jazz của Anders Wihk, chúng tôi có 40 người cùng đi để lo về âm thanh, ánh sáng và sân khấu, nhà làm phim Sven - Eric Frick và Henrik Burman khi ở Nhật trong chuyến đi nầy nói rằng chuyến đi thật vĩ đại như The Rock Train.
Nhưng trong chuyến đi này có vài điều rất buồn đã xảy ra. Alf Idland, người quản lý của chúng tôi bị đau ung thư. Bởi vì ông biết rằng ông sẽ không thể thích ứng với vai trò làm người quản lý, ông đã phải chuyển giao trách nhiệm cho những người khác ngay trong giai đoạn đầu và thỉnh thoảng chỉ đến thăm chúng tôi mà thôi. Dù sao, ông có vẻ rất khỏe, tưởng chừng như đã có thể thắng hơn bệnh tật của mình.
Tuy nhiên, mọi sự đã không như vậy. Bệnh tật đã lấn lướt được ông và ông chết trong giấc ngủ ngay tại đỉnh cao của chuyến đi. Đây là một tin rất buồn. Chúng tôi đã hủy bỏ buổi hòa nhạc trong hai ngày để có thể dự lễ tang của ông. Thật khó nghĩ khi phải chịu mất Alf, trong cương vị là một người bạn và là người quản đốc của chúng tôi.
Rồi những chuyến đi trong tương lai của chúng tôi sẽ ra thể nào? Điều này có vẻ vô định trong một khoảng thời gian. Nhưng khi chúng tôi hỏi bạn chúng tôi là Katsutada Sugitani, thì chẳng bao lâu sau đó chúng tôi được trả lời một cách tích cực. Anh đã thường xuyên làm cố vấn cho Alf Idland, và nhờ đó có sự thành thạo tương đương trong những công việc đã diễn ra. Anh tiếp quản công việc quản lý và đã giúp đỡ chúng tôi thật nhiều kể từ khi ấy.
Sự quan tâm của người ta đối với tôi có vẻ lâu bền. Nhận được sự chú ý thật thú vị, nhưng đồng thời nó cũng có nhiều đòi hỏi. Lúc nào tôi cũng được người ta chú ý, cho nên tôi phải suy nghĩ cẩn thận về điều mình làm và cách tôi trình diễn. Dường như tôi phải ở trước công chúng cả ngày đôi khi cả đêm nữa. Bên cạnh đó, khó có thể thật sự làm quen hoặc hiểu biết được người nào một cách sâu xa.
Đôi khi tôi đã thật sự suy nghĩ về việc chuyển đến “xứ sở mặt trời”, nhưng tôi không nghĩ nó có thể hoạt động lâu dài. Tuy nhiên, nước Nhật đã là một nơi đặc biệt trong trái tim tôi. Tôi tin rằng mình đã có thể cống hiến cho nhiều người một thái độ mới về người khuyết tật, và có lẽ tôi cũng đã có thể đem lại cho họ một sự hiểu biết về đức tin Cơ đốc là thế nào. Đồng thời tôi đã được học thật nhiều điều, và gặp nhiều người thật đáng chú ý, cũng đã có nhiều kinh nghiệm lý thú.
Hoàn toàn có thể nói niềm vui lớn lao nhất và kinh nghiệm lạ lùng nhất mà tôi có ấy là tôi đã thực thụ làm việc cho truyền hình - cùng với ông già Noel Santa Claus ở Thụy Điển!
Sau trận động đất lớn tại Kobe thì chương trình TV băng tầng Asahi được tiếp cận, muốn tôi dự phần trong một chương trình sẽ được phát sóng trong lễ Giáng Sinh. Một chuyến đi nọ, tôi cùng đi với đội truyền hình để thăm một vài sắc dân sống tại phần đất của Kobe, là những người bị thiệt hại nặng nề nhất. Tôi đã đến thăm một hội thánh trong túp lều tạm thời đã được dựng lên bằng những ống các tông rất lớn. Tôi đã được phỏng vấn và yêu cầu hát với đám trẻ tại đó cho một chương trình truyền hình đặc biệt Giáng Sinh năm 1995.
Nhưng trẻ em Kobe cũng còn những cơ hội khác để tiếp xúc với Thụy Điển. Đang trong niên học, một lớp học Thụy Điển đã thực hiện nhiều tranh vẽ và đã gởi đến các trẻ em tại Kobe. Đây là lý do vì sao hoa hậu Thụy Điển cùng với giám đốc của “Tomteland” (là vùng đất của ông già Noel) Thụy Điển đến Kobe để trao tặng các bức vẽ.
Ngày 22 tháng 12, tôi đi đến “Tomteland” bên ngoài Mora trong tỉnh Dalarna (Darlicarlia) để dự phần trong một màn diễn xuất truyền hình với kỹ thuật tiên tiến. Trong chương trình này, một trong những chương trình phổ biến nhất tại Nhật Bản là chương trình truyền hình trực tiếp, tôi phải nói cho trẻ con Nhật về nơi tôi đang đến thăm, và diễn ra cùng lúc một phụ nữ trong phòng thâu hình của truyền hình Nhật Bản thông dịch cho tôi.
Phần tiếp theo của chương trình họ trình chiếu một bản tường thuật về chuyến viếng thăm của tôi đến Kobe và trao tặng những bức vẽ. Nhưng sau đó diễn đến phần hết sức hấp dẫn. Tôi đã hát thánh ca Đêm Yên Lặng đứng ở ngoài trời dưới mưa tuyết trong rừng Darlicarlia đồng thời tôi (hay nói đúng hơn giọng hát của tôi được truyền thông qua vệ tinh) được đệm nhạc bởi một nhạc sĩ dương cầm đang ngồi ở tại Kobe.
Bởi vì phải mất thời gian cho âm thanh có thể truyền giữa Á châu và Âu châu, tuy có những tiến bộ khoa học đã thực hiện được, tôi vẫn không thể lắng nghe tiếng đàn piano phụ họa cho nên người nhạc sĩ dương cầm phải phụ họa với giọng ca của tôi mà thôi. Chúng tôi chưa từng có thì giờ để tập dượt với nhau cho nên pha trình diễn có một vài chi tiết nhỏ bất ổn thôi. Tất cả đều phải thực hiện trên màn truyền hình trực tiếp.
Mọi việc diễn ra thật xuất sắc, nhưng trước đó tôi chưa từng làm và sau đó cũng không còn dự phần lần nào giống như vậy nữa. 

Cuộc Đời Lena Maria - Chương 11


CHƯƠNG 11. VỚI MỤC TIÊU TRONG TẦM NHÌN -NHƯNG TẠI SAO?

Mục Tiêu Trong Tầm Nhìn đã có ý nghĩa hơn là điều tôi có thể tưởng. Từ khi tôi sinh ra, mẹ tôi đã có một bảo đảm chắc chắn rằng điều gì đó đặc biệt sẽ xảy đến với tôi khi tôi bước vào những năm hai mươi tuổi trở đi.
Bây giờ nhìn lại tôi tin rằng nó là chương trình truyền hình, bởi vì nó dẫn đến nhiều điều bất ngờ diễn ra những năm sau đó.
Tôi được nhiều đáp ứng đến từ khán giả truyền hình. Có những người chỉ viết thư để cho tôi biết họ khâm phục tôi thế nào và v.v..., nhưng những lá thư người ta thuật lại cho tôi họ được khích lệ và giúp đỡ thế nào nhờ chương trình truyền hình đã làm cho tôi còn hạnh phúc hơn nữa.
Việc quảng cáo khiến tôi nhận được càng nhiều yêu cầu hơn nữa về các buổi hòa nhạc. Nói với mọi người về Chúa Giêxu thông qua việc ca hát của mình là điều tôi thật muốn làm, cho nên lẽ tự nhiên tôi rất thích được nhận thêm nhiều cơ hội hơn nữa để ca hát.
Đang trong mùa xuân này tôi có nhiều hợp đồng đến nỗi nhạc sĩ piano của tôi Hans-Inge, đã không luôn luôn có đủ thì giờ để cùng đi với tôi. Sara Fält, một người bạn ở trung học đệ II cấp đôi khi thay thế vào chỗ đó để hòa nhạc cho tôi, nhưng chẳng bao lâu tôi bắt đầu cùng làm việc với một nhạc sĩ dương cầm khác là Anders Wihk, trên một căn bản đều đặn hơn. Tôi đã gặp anh ấy trong khoảng thời gian đang hướng dẫn một ca đoàn thanh niên ở tại Stockholm, lúc ấy anh vừa mới từ Mỹ Quốc trở về sau khi hoàn tất năm năm học tại đại học Berkeley về âm nhạc. Enders có lẽ đã không hoàn toàn đồng cảm với lòng ham thích âm nhạc như tôi, nhưng anh đã chia sẻ mong ước của tôi muốn dùng âm nhạc để làm vinh hiển danh Chúa.
Và rồi tôi được dịp diện khiến với nữ hoàng Silvia của Thụy Điển! Vào mùa xuân năm 19;89; nữ hoàng chuẩn bị đến thăm một hội nghị về người khuyết tật tại Mỹ Quốc. Một trong các lý do khiến bà phải đi đến đó là vì muốn giới thiệu một cuốn sách về các môn thể thao dành cho người khuyết tật mà chính nữ hoàng đã khởi xướng và bà cũng đã viết lời giới thiệu mở đầu cho cuốn sách. Một vài người tại cung điện đã xem cuốn phim của Burman và Frick nói về tôi và muốn đem cuốn phim đó với họ để trình chiếu tại hội nghị. Họ nghĩ rằng tôi là một gương mẫu tốt đẹp về người lực khuyết tật, vì vậy một bản phim rút ngắn đã được thực hiện.
Khi hoàng hậu từ Mỹ Quốc trở về bà muốn gặp tôi, và như thế tôi được cho phép một cuộc diện kiến, tôi cảm thấy đây là một vinh dự thật sự khi được gặp bà cách riêng tư, mặc dù dĩ nhiên tôi không được hoàn toàn ở riêng với bà. Hai người làm phim, Henrik Burnan và Sven - Erik Frick, cũng có ở đó và cùng với Gert Engstrưm là người đã đi Mỹ với hoàng hậu, và một người phụ nữ giúp việc. Chúng tôi được dành nửa tiếng đồng hồ để nói chuyện với hoàng hậu. Nhưng thật vui vì chúng tôi đã tiếp tục nói chuyện lâu hơn một ít.
Hoàng hậu Silvia hỏi nhiều việc về đời sống của tôi và những giấc mơ cũng như hy vọng tôi muốn có trong tương lai. Sau đó thì cuộc diện kiến kết thúc và một vài tấm hình được chụp do những phóng viên nhà báo, rồi chúng tôi chào từ biệt. Hoàng hậu ở lại để tiếp tục cuộc hẹn sau đó của bà hơi trễ một chút.
Khi đi ra sân sau của cung điện, chúng tôi nhận thấy trời đang mưa. Tôi chỉ mới chạy một vài bước về hướng xe của mình trước khi bị trượt và ngã đập đầu xuống đất. Thỉnh thoảng tôi cũng bị té ngửa và hầu như không sao cả, nhưng lần này mọi sự dường như quay cuồng khi tôi cố gắng ngồi dậy.
Gert Engstrưm lo lắng và muốn điện thoại gọi xe cứu thương ngay lập tức, nhưng tôi nghĩ điều này hoàn toàn không cần thiết. Dầu vậy một lúc lâu sau buộc lòng tôi phải chịu thua bởi vì tôi hoàn toàn không thể ngồi dậy được và chân trái của tôi đã bắt đầu đau vô cùng.
Chân giả gần như bị rời ra hẳn khi tôi bị té, và đồng thời chân tôi đã bị trặc - đó là lý do tại sao nó đau nhiều như thế. Xe cứu thương đã đến và họ đem tôi vào bệnh viện với một tốc độ nhanh như chớp. Mặc dầu chân vẫn còn bị đau, tôi thấy được đi trên xe cứu thương tại Stockholm là một kinh nghiệm thật đặc biệt, xe chạy nhanh, vì trọn cuộc hành trình tất cả những xe khác đều phải nhường đường cho chúng tôi.
Sau khi đến bệnh viện tôi phải ngồi và chờ một lúc lâu, nhưng điều đó không ảnh hưởng gì đến tôi. Tôi ngồi và hát nho nhỏ cho mình đủ nghe và thưa với Chúa cũng như kêu xin Ngài giúp đỡ. Tôi đã hẹn một buổi hòa nhạc trong cuối tuần đến và không muốn hủy bỏ nó cho nên tôi thưa “Chúa ôi bây giờ Ngài sẽ phải lo liệu để con có thể mạnh khỏe để đi đến đó.”
Sau khi chờ ba tiếng đồng hồ, tôi được cho phép đến cho một bác sĩ khám, được kiểm tra và chụp quang tuyến X. Trên phim họ có thể thấy ba vết nứt nơi chân trái của tôi, cho nên không lạ gì nó đã gây cho tôi đau đớn. Bác sĩ cho tôi một ít thuốc trị đau nhức và một người bạn lái xe chở tôi về nhà, tôi uống một viên và đi ngủ.
Sáng hôm sau, khi thức dậy, tôi khám phá thấy mình ngạc nhiên vì tất cả những cơn đau nhức đã biến mất. Dĩ nhiên nó vẫn còn đau khi tôi cố gắng di chuyển chân, nhưng cơn đau nhức liên tục đã biến mất, và điều này làm cho tôi phấn khởi vô cùng.
“Điều này thật tốt Chúa ôi! Xin cứ tiếp tục như thế!” Tôi suy nghĩ và đi đến một trung tâm nơi họ có những phương tiện giúp đỡ cho người khuyết tật. Thật không thể lúc nào cũng cứ nhảy lò cò một chân, cho nên tôi thật vui khi họ cho tôi mượn một chiếc xe đẩy. Nhưng tôi còn vui sướng hơn nữa khi tôi trở về nhà và thấy 20 đóa hoa tulip vàng treo ở cửa ra vào. Chúng đến từ hoàng hậu với lời chúc mừng mong tôi “Chóng Bình Phục”. Không phải ngày nào người ta cũng nhận được hoa từ hoàng hậu Silvia...
Tuy nhiên vài ngày sau đó tôi phải có bài tập hát tại nhà thầy giáo Lena Ericsson. Việc này là một nan đề nhỏ, bởi vì căn hộ của bà ở tầng ba và không hề có thang máy. Tôi biết rằng mình không thể nhảy lò cò lên tất cả các bậc cấp, bởi vì sau đó tôi không thể đủ sức hát, nhưng có lẽ chỗ sưng phồng đã xẹp bớt đủ để giúp đỡ tôi một chút nào chăng? Tôi cố gắng rón rén đi bằng chân giả. Thật ngạc nhiên vô cùng nó có thể hoạt động! Và sau khi quen thuộc được với bài tập hát, tôi quyết định rằng mình cũng có thể đến buổi hòa nhạc nữa. Và sự thật đã diễn ra như thế!
Một tuần sau tôi nhận được một cú điện thoại từ Gert Engstrom cho tôi biết rằng Hoàng Hậu Silvia muốn tặng tôi một học bổng từ quỹ kỷ niệm đám cưới của Đức Vua và Hoàng Hậu để tôi có thể tiếp tục việc học nhạc. Tôi được trao tặng mười ngàn kronor mà tôi dùng trang trải chuyến đi Mỹ để nghiên cứu “Phúc Âm Đen” tại một hội nghị Phúc Âm quan trọng ở đó.
Thật là một kinh nghiệm lớn lao vô cùng khi là một giọng ca trong ban hát khổng lồ gồm hai ngàn năm trăm người (trong đó chỉ có năm người da trắng) với thật nhiều ca trưởng. Quanh tôi toàn là những phụ nữ da đen khỏe mạnh, hát đến nỗi mặt đất cũng phải rúng động. Đó là nơi tôi được học biết hát theo kiểu Phúc Âm thật sự như thế nào!
Trở về lại Thụy Điển tôi tiếp tục làm việc với những âm giai và bài tập hát của mình, và đồng thời Anders và tôi có hàng loạt những buổi hòa nhạc. Việc đó diễn ra trọn thời gian này.
Vào mùa xuân 1991 mọi việc trở nên càng tất bật hơn nữa. Khi một phiên bản phim ngắn của chương trình Mục Tiêu Trong Tầm Nhìn đã được cho phát hình tại Nhật Bản. Đó là trong giờ đầu tiên của chương trình Trạm Tin Tức nổi tiếng trên đài truyền hình Asahi, một trong những băng tầng truyền hình lớn nhất tại Nhật Bản.
Thật nhiều phản ứng đến từ khán giả Nhật Bản. Có lẽ lý do chính của điều này là họ vốn có một thái độ hoàn toàn khác đối với người khuyết tật. Đại đa số dân Nhật nghĩ về những người khuyết tật như là các công dân thứ yếu. Qua chương trình truyền hình này họ đã nhận được một bức tranh hoàn toàn khác hẳn.
Nhà sản xuất là một phụ nữ tên là Kaori Asamoto đã quyết định gởi một đội người Nhật đến Thụy Điển để thực hiện chương trình riêng của họ nói về tôi. Đội làm phim của họ đã ở cùng tôi tại Stockholm trong một tuần, và họ có thì giờ đi với tôi đến thật nhiều nơi. Họ cùng đi với tôi đến buổi hòa nhạc của tôi. Nhưng họ cũng quay phim tôi ở nhà để cho thấy cách tôi thích nghi với mỗi ngày đời thường thể nào.
Chương trình này đã được phát đi một buổi chiều thứ sáu, và có thật nhiều người Nhật xem. Thứ sáu tiếp theo đó tôi đã ở tại Trạm Tin Tức trong phòng quay phim để được phỏng vấn và để hát trong chương trình của họ trực tiếp phát sóng. Tôi thấy tất cả việc nầy thật là thích thú, nó đặc biệt nói lên rằng có một triễn vọng giúp tôi có thể tiếp tục sự nghiệp âm nhạc của mình ngay cả sau khi đã hoàn tất đại học.
Mùa hạ năm 1991 khi tốt nghiệp NhạcViện tại Stockholm, tôi hoàn toàn thích thú với ý nghĩ được tham gia vào sự nghiệp ca hát trong vài năm sắp đến và tôi thật cảm tạ rằng mình có thể làm điều này trọn thời gian. Tôi yêu thích ca hát. Vào mùa thu, tôi trở lại Mỹ một lần nữa. Nhạc sĩ dương cầm của tôi là Anders và tôi đã được mời đến trình tấu thánh ca tại nhiều hội thánh khác nhau tại Mỹ trong gần hai tháng. Ở những nơi khác, chúng tôi được yêu cầu dự phần trong một chương trình phát sóng trực tiếp một buổi lễ tại thánh đường Crystal tại Los Angeles.
Chuyến du hành này thật bận rộn. Trong vòng năm mươi bốn ngày, chúng tôi đã thực hiện năm mươi sáu lần trình tấu khác nhau, trong số đó ba mươi lần là hòa nhạc hoàn toàn. Điều này thật là quá nhiều. Khi trở về nhà tôi cảm thấy không được khỏe. Tôi được ở nhà với cha mẹ trong mùa Giáng sinh, nhưng tôi dành hầu hết thì giờ này để ngủ.
Thể trạng của tôi có lẽ vẫn ở trong điều kiện tốt, nhưng tinh thần tôi thì không được vậy. Tôi không còn muốn làm gì cả. Tôi mất hết cả ao ước của mình về mọi sự. Tôi cũng không thèm ăn uống gì nữa. Tôi không muốn gặp bất cứ người nào. Tôi cũng không còn sức lực để cầu nguyện. Điều duy nhất tôi muốn là ngủ.
Trong chuyến đi Mỹ của chúng tôi, tôi đã mua cho mình một cuốn Kinh Thánh tiếng Anh. Nội dung cuốn Kinh Thánh đã được phân chia ra thành các sách theo thường lệ, các thư tín và phân đoạn, nhưng bản này cũng được chia theo lịch ngày nữa. Ý tưởng này muốn người ta sẽ đọc mỗi ngày một ít và như thế sẽ đọc hết Kinh Thánh trong một năm. Mặc dù thật rã rời, tôi đã cầm cuốn sách đó và bắt đầu đọc. Hoàn toàn không có gì mới với tôi, vẫn là những câu chuyện sáng tạo trong những cuốn Kinh Thánh khác mà tôi đã đọc nhiều lần, cũng là tình cảnh nô lệ tại Ai cập, cũng vậy, cũng vậy...
Tuy nhiên, sau một vài ngày nghỉ ngơi, tôi để ý thấy lần hồi niềm vui cũ và lòng nhiệt thành với cuộc sống bắt đầu trở lại và tôi nghĩ rằng mình đặc biệt cảm thấy khỏe, đó là lúc tôi được đọc cuốn Kinh Thánh tiếng Anh.
Không lâu sau đó tôi thấy khỏe hơn nhiều, nhưng bây giờ tôi phải ngồi xuống và suy nghĩ mọi sự một cách thích đáng. Trải qua những năm gần đây toàn bộ đời sống tôi đã được dẫn vào hai chữ “nếu” và “thì.” Khi cuộc sống đã diễn ra trong khoảng thời gian được huấn luyện bơi lội, tôi đã suy nghĩ “nếu khi nào tôi được cho phép cống hiến chính mình cho việc ca hát một cách thích đáng - thì lúc ấy mọi sự sẽ trở thành dễ chịu hơn.” Và rồi sau đó khi được ở ngay trung tâm của sự nghiệp học hỏi âm nhạc của mình, tôi đã nghĩ: “Nếu khi nào tôi hoàn tất đại học và được cho phép ca hát trọn thời gian - thì lúc ấy toàn bộ cuộc sống của tôi sẽ trở thành tốt đẹp hơn.”
Bây giờ tôi đã là một ca sĩ trọn thời gian, nhưng lại tôi đã lại va đầu vào tường một lần nữa y như vậy.
Đồng thời tôi suy nghĩ về động cơ của mình và những sự thôi thúc của Chúa.
Cha mẹ tôi đã luôn luôn khích lệ tôi theo đuổi điều lòng mình ao ước. Thực hiện điều gì thật sự thâm sâu trong lòng tôi. Trọn đời tôi, ao ước của tôi đó là được làm điều mà Chúa muốn tôi làm. Tôi biết rằng chỉ khi ấy mọi sự mới trở thành tốt nhất.
Nhưng bây giờ tôi bắt đầu thắc mắc phải chăng mình vẫn còn đi theo ý muốn của lòng mình. Có lẽ tôi chỉ ca hát bởi vì bây giờ mọi người đều muốn tôi hát? Tôi không còn vui thích trình diễn và tổ chức những buổi hòa nhạc nữa. Điều duy nhất tôi muốn làm và điều duy nhất tôi có thể làm lúc đó là lắng nghe hữu thể sâu thẳm trong lòng tôi một lần nữa.
Tôi đã không đột ngột ngưng việc ca hát. Ít nhất không phải vì áp lực vẫn tiếp diễn từ Nhật Bản và không do điều tôi đã hứa thực hiện một chuyến du hành dài trong mùa xuân năm 1992. Nhưng tôi mau chóng nhận ra rõ là mình cần phải có một thời gian tạm nghỉ để suy gẫm sâu xa điều tôi muốn làm trong đời tôi từ nay trở đi. Tôi quyết định vào Trường Kinh Thánh.
Đó là nguyên do khiến tôi đến Ấn Độ! 

Cuộc Đời Lena Maria - Chương 12

CHƯƠNG 12. ĐIỀU TÔI HỌC ĐƯỢC TẠI ẤN ĐỘ

Tôi bị thức giấc bởi vì đầu đang đau. Hẳn đó phải là một vết muỗi cắn khác. Gian phòng thật tối và lạnh, tôi cảm thấy mình bị đau và mệt kinh khủng, nhưng lại không thể ngủ tiếp. Mọi sự đều yên lặng ngoại trừ tiếng thở đều đều của hai cô gái ở cùng phòng tôi.
Một con muỗi vo ve bay đến nhưng lại biến mất một lần nữa đang khi tôi nằm đó suy nghĩ.
Nếu tôi biết trước mọi sự sẽ diễn ra như thế này tại Ấn Độ thì tôi không biết mình có đi đến đây hay không. Mọi sự đều khác lạ và còn dơ bẩn nữa. Hai ngày trước đây tôi cố gắng xức lên mình một ít dầu thơm, nhưng năm phút sau đó không còn nghe được mùi thơm nữa. Bây giờ thì tôi đã làm quen được với tất cả mùi lai. Nhưng nhớ lại khi máy bay hạ cánh và chúng tôi mới bước ra khỏi cửa thì được chào đón bằng một thứ mùi hôi không thể tả được.
Bây giờ tôi đang nằm đây thao thức thật sớm trong buổi sáng đầu tiên của năm mới. Tưởng tượng rằng bắt đầu một năm mới theo kiểu này: trong một túi ngủ cách xa nhà sáu ngàn năm trăm Km! Tôi hoàn toàn cảm thấy miệng mồm khô khốc vì đã bị viêm xoan. Và đồng thời dường như toàn bộ cơ thể tôi đều bị đau nhức. Tôi không nghĩ chỉ vì những vết muỗi cắn mà thôi. Cằm tôi đã phát ra một chứng chàm dị ứng và ở trên má cũng vậy là điều tôi chưa từng bị trước đây, và tôi trông thật xấu xí. Bây giờ tôi đã nằm đây hơn ba ngày đêm rồi, trừ những lúc tôi phải chạy vào nhà vệ sinh bởi vì tiêu chảy...
Vậy là tôi đã có mặt tại Karnal.
Sau ba tháng học tại một Trường Kinh Thánh quốc tế ở Amsterdam cùng với bốn muơi sinh viên khác đến từ nhiều quốc gia, tất cả chúng tôi đã đến Ấn độ để thực hành điều mình đã học. Năm người bạn học cùng lớp và tôi đã đến Karnal, một cuộc hành trình kéo dài vài tiếng đồng hồ bằng xe buýt đi về hướng Bắc Tân Delhi để cùng hợp tác làm việc với Mục sư Lal và hội thánh nhỏ bé của ông. Chúng tôi cùng chung sống tại đây với Mục sư và gia đình ông trong một căn nhà nhỏ bé và phụ giúp các buổi lễ. Chúng được tổ chức trong nhà xe của ông mà nay được dùng làm nhà thờ.
Chúng tôi là ba cô gái cùng ở chung trong một phòng chỉ đủ chỗ cho mấy cái giường của chúng tôi, ngoài ra không còn cái gì khác. Đâu đâu cũng thấy đông người. Bất cứ chỗ nào trong nhà này người ta cũng có thể đâm sầm vào một người khác. Trên hết mọi sự đó, người sống trong làng này đã nghe về những người ngoại quốc đến thăm viếng cho nên nhiều người đã đến thăm chúng tôi. Tôi là một kẻ sống một mình trong tám mươi mét vuông tại Stockholm và đã có thể tùy ý sử dụng thì giờ của mình, cảm thấy rất khó làm quen với mọi sự.
Ví dụ như tôi muốn đi ra đường tự một mình, nhưng điều này không thể thực hiện được, bởi vì nó được xem là nguy hiểm. Đặc biệt đối với phụ nữ. Nếu ai đó cần phải đi đến bưu điện hay ngân hàng, phải có một người nào khác luôn luôn đi kèm, và đôi khi việc này phải mất cả nửa ngày. Do đó chúng tôi cần phải hoạch định một cách chi tiết hầu như mỗi ngày và học cách điều chỉnh thành sáu ý mạnh mẽ khác.
Là một người phụ nữ tại Ấn Độ không giống như lúc ở nhà. Ở đây Chúng tôi được đối xử hoàn toàn khác, và tất cả chúng tôi là con gái đều bị buộc phải suy nghĩ trước và cân nhắc những hành vi của mình. Chúng tôi phải luôn nhắc mình không bao giờ được nhìn vào mắt một người đàn ông. Bởi vì điều này có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường.
Tuy nhiên hoàn cảnh của một người khuyết tật như tôi có lẽ là khó khăn hơn hết. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi, tôi đã phải nghĩ rằng mình là kẻ khuyết tật. Ở nhà tôi thường tự lo hết thảy mọi sự. Tôi luôn luôn sống như mọi người khác và hiếm khi nào nghĩ rằng thiếu tay là một trở ngại lớn lao. Lẽ đương nhiên tôi làm mọi việc theo một cách khác, nhưng khuyết tật của tôi hầu như không hề giới hạn tôi làm điều mình muốn làm.
Tại Ấn Độ có rất nhiều điều tôi không thể làm. Lúc nào tôi cũng bị thúc bách phải yêu cầu người khác giúp đỡ, và đây là điều mà tôi chưa từng bị buộc phải làm - ít nhất là cho đến thời điểm này. Tôi có cảm tưởng như thể mình đang được chăm sóc đi ngược lại ý muốn của mình. Thật khó khi tự mình không thể giúp đỡ ngay cả trong việc nấu nướng hay rửa chén. Tôi không thể tự mình tắm sen, và đi nhà vệ sinh vẫn thường là một vấn đề nan giải.
Dù vậy tôi thấy dường như Chúa vẫn đang ở với tôi. Nhờ đó mà được nhiều điều thuận lợi, chẳng hạn như toán chúng tôi là toán duy nhất luôn luôn được có nhà vệ sinh theo kiểu phương tây ở bất cứ nơi nào chúng tôi đến, và tôi thật cảm tạ ơn Chúa về điều này. Nhưng dĩ nhiên các nhà vệ sinh không nhất thiết luôn luôn dội nước khi chúng tôi cần, và dương nhiên điều nầy có thể gây ra nhiều nan đề. Đổ đầy nước cho đến vành sô bằng thiếc rồi đổ nó vào trong cầu là một việc quá nặng nhọc đối với tôi, cho nên trong những trường hợp như thế tôi luôn luôn phải xin người khác giúp đỡ.
Nhưng trong một trường hợp khi tôi là một nạn nhân của chứng đau bụng và phải đi nhà vệ sinh không biết bao nhiêu lần, thì tôi thật sự không muốn mở cửa phòng cho bất cứ ai, bởi vì mùi tỏa ra từ nơi đó chắc chắn không dễ chịu chút nào. Tôi đứng đó, nôn nóng suy nghĩ không biết làm thế nào có thể giải quyết được nan đề mà không phải nhờ ai giúp đỡ. Lúc ấy tôi bắt đầu suy nghĩ về những câu chuyện lớn lao lạ lùng mà những nhà truyền giáo đã thuật lại cho chúng tôi trong thời ấu thơ, về cách họ đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời trong những trường hợp khẩn cấp và đã thấy nhiều việc diễn ra. Được rồi, trường hợp của tôi rõ ràng là một thứ trường hợp khẩn cấp!
Vậy nên trước khi tôi có đủ thì giờ để hiểu rõ thật sự điều mình đang làm, tôi nói lớn bằng một giọng quả quyết:
“Nhân danh Chúa Giêxu, hãy hoạt động!”
Tôi kéo chốt nước-và bỗng nhiên nó dội nước như chưa từng bị trở ngại. Tôi không tin vào mắt của mình nữa!
Điều đó đã trở thành một việc mà những người khác trong nhà cũng đã làm khi đến viếng nhà vệ sinh nữa, và cho dù nó không luôn luôn hoạt động như vậy, thì khi nó hoạt động được cũng đã đem lại niềm vui.
Tôi cũng tin rằng chính nhờ những tình tiết như vậy đã giúp đỡ tôi thích nghi được với mấy tháng ở tại Ấn độ.
Sự kiện sau đây cũng là một ví dụ khác tương tự:
Điều này đã diễn ra sau khi chúng tôi vừa mới đến Ấn Độ, tôi phải rời lớp trong vòng một tuần lễ bởi vì đã hứa bay đến Nhật để hát trong một trường hợp do Liên Hiệp Quốc sắp xếp. Sau đó, tôi đã về lại Bombay nơi các bạn học của tôi đang ở, nhưng có điều gì đó sai lầm đã diễn ra. Chúng tôi hạ cánh vào lúc nửa đêm, và phi trường đông nghẹt những người.
Tôi cố gắng hỏi người đàn ông Ấn độ đang giúp tôi khiêng hành lý xem thử điều gì đã diễn ra, nhưng anh ta không hiểu điều tôi nói. Tôi chỉ hiểu dường như mình sẽ không thể rời phi trường. Dần dần tôi hiểu ra được rằng tất cả những dịch vụ xe buýt và taxi đã ngừng hoạt động và như thế tôi không thể rời phi trường.
Tuy nhiên một viên phi công giúp tôi đi lên một phòng đợi khởi hành, nơi mà tôi được phép ở lại qua đêm. Nhiều lần các lính gác đã đến và đuổi mọi người khác, nhưng tôi vẫn được cho phép ngồi tại đó.
Vào khoảng gần năm giờ sáng, tôi hỏi một người lính gác xem mình có thể xin một chiếc taxi hay không, nhưng câu trả lời của anh ta chỉ là: “Nguy hiểm, nguy hiểm!”
Và sau đó khi tôi hỏi anh lại lần nữa anh nói:
“Vẫn còn nguy hiểm!”
Khi trời vừa rạng sáng anh ta kêu tôi đi theo anh, anh bảo rằng mặc dù hiện nay vẫn còn nguy hiểm, nhưng đây có lẽ là lúc tốt nhất để đi. Tôi được cho phép đi ra qua một cánh cửa sau nơi có một chiếc taxi đang đợi. Người tài xế taxi đòi gấp đôi giá tiền xe bình thường, và phải trả trước một phân nửa. Tôi chỉ muốn đi, cho nên tôi đã đưa anh ta số tiền anh muốn, và anh lái xe ra khỏi đó với một tốc độ điên cuồng chạy vào trong thành phố.
Thật là kinh hoàng khi thấy mọi đường phố đều vắng lặng. Tại nơi cách đây hai tuần lễ trước đường phố đông đen những người sống tại đó, mà nay thì trống trải. Càng gần đến thành phố, người lái xe càng trở nên cẩn thận hơn, tại mỗi đường băng ngang anh đều dừng lại và nhìn xem hết sức cẩn thận trước khi nhấn ga chạy cho tới khi anh đến được khu nhà kế tiếp.
Một viên cảnh sát muốn đi nhờ đã được cho phép lên xe. Trong khi người tài xế lái xe xa hơn. Tại sao không có ai ở tại đó? Tại sao nó trở nên nguy hiểm? Tại sao đi đến nơi của tôi lại quá xa như vậy? Tôi trở nên càng lúc càng thêm sợ hãi. Tôi không nghĩ rằng có bao giờ mình từng cầu nguyện mãnh liệt như thế với Chúa, dù trước hay sau biến cố này cũng chưa hề có vậy.
Cuối cùng, Khi chúng tôi dừng lại trước căn nhà trọ thanh niên nơi mà các bạn học của tôi đang ở, tôi đi ra khỏi taxi đứng trên chân run rẩy và bước vào. Tôi được cho biết rằng đã trải qua bốn ngày giới nghiêm tại Bombay bởi vì đã có cuộc chiến giữa những người Hồi Giáo và Ấn độ giáo cho nên chuyến xe taxi vừa rồi của tôi có thể đã kết thúc một cách tồi tệ. Tôi cảm thấy nhẹ nhỏm khi đến nơi và thật cảm tạ ơn Chúa về sự bảo vệ của Ngài trong tất cả mọi sự đó.
Mặc dù thời gian ở tại Ấn Độ là khoảng thời gian khó khăn nhất mà tôi đã trải qua, nó hình thành trong con người tôi và cách suy nghĩ của tôi rất nhiều điều. Đức tin của tôi trở nên sâu nhiệm hơn, và tôi học biết quí mọi sự mà trước kia tôi chưa từng thật sự quí trọng. Lòng ao ước của tôi về âm nhạc lại đến, và tôi cảm nhận được một động cơ để bắt đầu ca hát nhiệt thành trở lại.